Những bức ảnh
chưa từng công bố về Việt Nam
cách đây hơn 100 năm
Vừa qua, khi bộ sưu
tập ảnh 'Ký ức về Việt Nam 1895-1896' của
nhà sưu tầm Armand Rousseau lần đầu tiên
được giới thiệu tới công chúng, Giáo sư
Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Lịch
sử Việt Nam đã khẳng định, bên cạnh giá
trị tương đối về nghệ thuật,
bộ ảnh còn có giá trị tư liệu rất lớn,
là nguồn sử liệu quý báu để nhận diện
nước Việt Nam vào những năm cuối cùng
của thế kỉ 19.
Sau gần 120 năm
được lưu giữ bởi những thành viên trong
dòng tộc Rousseau, lần đầu tiên, gần 300 tư
liệu ảnh được nhà Toàn quyền Armand Rousseau
chụp lại trong thời gian ông thực hiện
nhiệm vụ ở Đông Dương đã đến với
đông đảo công chúng Việt Nam. Với rất
nhiều địa danh như Hà Nội, Hạ Long, Hải
Phòng, Tuyên Quang, Huế, Touranne (Đà Nẵng), Nha Trang, Phan
Thiết, Sài Gòn - Chợ Lớn, Mỹ Tho, Tây Ninh, Bà
Rịa - Cap Saint Jacques... chúng ta có cơ hội chiêm
ngưỡng những sinh hoạt văn hóa cũng như
đời sống cộng đồng của người
An Nam bản xứ giai đoạn cuối thế
kỷ XIX trên khắp ba miền đất nước.
Kiến trúc Thành Hà Nội
còn khá nguyên vẹn và công cuộc quy hoạch mới đang
được triển khai thể hiện qua việc
trồng cây xanh quanh khu vực Cột Cờ.
Qua các bức ảnh, độc giả bắt gặp
những địa danh, thắng cảnh, sinh hoạt vùng
miền trên những bước đường mà A.Rousseau
đã đi khảo sát thực địa. Đó là Thành Hà
Nội với những hình ảnh cuối cùng trước
khi bị phá gần như toàn bộ kiến trúc, chỉ
giữ lại duy nhất thành Cửa Bắc và Cột
Cờ để quy hoạch lại theo quy thức một
thành phố hiện đại phương Tây; phiên bản
tượng Nữ thần Tự Do của nhà điêu
khắc Pháp August Bertholdi trên nóc Tháp Rùa giữa Hồ Hoàn
Kiếm; bức tượng đồng Thánh Trấn Vũ
không ở vị trí kín đáo và lùi vào sâu như ngày nay.
Chúng ta có thể quan sát
thấy vào cuối thế kỷ XIX, người Pháp đã
không phá bỏ những phố phường vốn có
từ xa xưa của Thăng Long Hà Nội. Ở những
mức độ khác nhau, họ đầu tư cải
tạo hạ tầng nhưng vẫn giữ những
yếu tố truyền thống. Phố Chợ Gạo
vẫn giữ vẻ sơ sài trong việc mua bán gạo và
các sản phẩm thôn quê; phố Hàng Mắm với đoàn
người gánh các thùng gỗ đựng mắm từ
bến sông vào các cửa hàng; phố Hàng Điếu
rộng rãi, sang trọng hơn vì bán thức hút cho những
khách là thị dân; phố Hàng Bông cho thấy nhà cửa
bằng gạch khang trang hơn hẳn lại đang
được chỉnh trang hạ tầng nhờ công
sức của những người tù lao động
khổ sai bằng việc kéo những chiếc lu lăn
đường rất nặng...
Bên cạnh đó, chúng ta có
cơ hội được thưởng lãm một Hà
Nội mà dân gian gọi là Kẻ Chợ với các hoạt
động mua bán sầm uất, với khu bán rau quả
tại Chợ Đồng Xuân kéo dài ra gần sông Hồng,
các bến bãi tre nứa được thả bè từ
thượng du về xuôi, và có cả một Hà Nội
của những người bán rong.
Trước
thời thuộc địa, Biên Hòa được coi là
trung tâm của toàn bộ phương Nam
Ảnh chụp thời toàn quyền Rousseau cho thấy vai
trò của giao thông đường thủy bằng
những thuyền gỗ hay bè mảng truyền thống;
vào mùa nước cạn, những chiếc cầu phao
sẽ bổ sung cho việc đi lại qua sông
bằng những chiếc đò ngang. Và khác với cư dân
người Âu, vào cuối thế kỷ XIX, người
bản xứ vẫn duy trì các trò chơi mang tính dân gian hay
bản địa vào những dịp lễ tết. Ở
Hà Nội, dân chúng vẫn thích chơi trên những chiếc
đu bằng tre hay dân Cần Thơ lại thi bơi
thuyền trên sông nước. Trò múa Lân cũng rất
được ưa chuộng, còn việc kết bè làm sân
khấu trên mặt hồ Hoàn Kiếm hay các trò vui gắn
với tài điều khiển voi cũng khá phổ
biến.
Vốn là phố của
thợ vẽ và thợ làm trống, Jules Ferry - một
đường phố phía Tây của Hồ Hoàn Kiếm,
gần với Nhà Thờ Lớn mọc lên rất nhiều
khách sạn, các tòa báo và cửa hàng. Một bức ảnh
chụp từ phía bờ Nam của hồ nhìn về Nhà
Thờ Lớn và một bức khác chụp khách
sạn Hà Nội với dãy xe kéo “pouspous” - thứ
phương tiện giao thông chủ yếu trong thành
phố đã thể hiện điều đó.
Các bức ảnh chụp
Nhà thờ cho thấy, Thiên Chúa giáo có cơ hội phát
triển vào cuối thế kỷ XIX khi nước Pháp xác
lập được quyền lực ở thuộc
địa. Kẻ Sở (Hà Nam) hay Phát Diệm (Ninh Bình) là
những trung tâm lớn mà các kiến trúc hay các nghi thức
hành lễ đều chứa đựng cả hai yếu
tố: văn hóa catholique của châu Âu và văn hóa bản
địa của dân tộc Việt. Thể hiện qua các
chi tiết: những mái cong của phương Đông và
những vòm Gothique của phương Tây, những
chiếc lọng rất điển hình trong lễ
rước.
Bức
ảnh “Mỹ Tho và những biến đổi”
Chúng ta cũng bắt gặp rất nhiều lần hình
ảnh của chiếc xe bò trong các tư liệu ảnh
của A.Rousseau. Dường như phía Bắc Việt Nam thuở xa xưa không có loại xe có hai bánh xếp ngang. Bằng
chứng là trên những đường cái quan, huyết
mạch của quốc gia, đường xá rất
hẹp phù hợp với việc gồng gánh hay sử
dụng loại xe có một bánh phía trước (Kutkit). Giai
đoạn này, người Pháp đã rất ưu tiên và
chú trọng vào khai thác than ở Quảng Ninh. Những
tấm ảnh đã nói lên sự đầu tư không
nhỏ với những thiết bị mà vào thời
điểm ấy có thể coi là hiện đại.
Một bức ảnh
về Nam Giao ghi lại khoảnh khắc cuối thế
kỉ 19 (năm 1895 hoặc 1896). Rõ ràng, khi xem ở đây,
ta thấy người xưa ăn mặc như thế
nào, các đoàn rước như thế nào…, cả về
lễ hội và di tích được ghi lại ở
thời điểm cuối thế kỉ 19, mà cho
đến bây giờ, có những cái đã biến
đổi, thậm chí không còn nữa. Và Sài Gòn năm 1895,
cảnh vật trên sông chính là bến tàu của Hãng Messagerie
Maritime, những chiếc tàu cỡ lỡn và những lá
cờ tam tài của nước Pháp, với ngôi nhà sau này
được định danh là “Nhà Rồng”.
Bức
ảnh “Trà Vinh và văn hóa Khmer”
Trong quãng thời gian những bức ảnh
được chụp, có thể khẳng định hoàn
toàn không thấy dấu ấn của một “China Town”
ở Chợ Lớn. Kiến trúc nhà cửa vẫn là
của người phương Nam, giếng nước
hình vuông là kế thừa của người Chăm.
Những người Hoa ở Chợ Lớn với
những phong tục của Nhà Thanh như róc tóc kết
đuôi sam là lớp người di dân đến * muộn,
và dường như lớp người di dân đầu
tiên thuộc triều Minh đã hòa nhập với
người Việt bản địa.
Như vậy, giá trị
tư liệu của bộ ảnh này là vô cùng quý giá
bởi nó gợi lại cả một giai đoạn
lịch sử của dân tộc giai đoạn cuối
thế kỷ XIX. Đó là những địa danh nổi
tiếng, những tập quán sinh hoạt, những hoạt
động cộng đồng của dân tộc ở
thời kỳ cách đây gần 120 năm, từ đua
ngựa, hòa nhạc ở Hà Nội tới khai thác than
ở Quảng Ninh, từ kiến trúc lăng tẩm
Huế tới kiến trúc thành miền thượng du Tuyên
Quang, từ Thành Nam với Phủ Thiên Trường tới
Sài Gòn - Chợ Lớn... Điều đó giúp chúng ta có thêm
những phát hiện mới mới về lịch sử
văn hóa dân tộc Việt Nam.
Người
An Nam xưa
Trước năm 1899, Trà
Vinh chưa phải là một tỉnh ở * mà chỉ là
một tiểu khu thuộc tỉnh Vĩnh Long với
cư dân người Việt chiếm số đông,
nhưng cộng đồng người Khmer cư ngụ
lâu hơn. Vì thế, các ngôi chùa theo phong cách của Phật
giáo Tiểu thừa và những vị sư người
Khmer với sắc áo màu sáng là rất đặc trưng
trong đời sống tôn giáo tại đây.
Phố Chợ Gạo (Hà
Nội) vẫn giữ vẻ sơ sài, phản ảnh
những hoạt động mua bán gạo và các sản
phẩm của thôn quê.
Cư
dân vùng bản địa
Kiến
trúc hiện đại của thành thị
Vào cuối thế kỷ
XIX, người bản xứ vẫn duy trì các trò chơi
mang tính dân gian hay bản địa vào những dịp
lễ, Tết. Ở Hà Nội, dân chúng vẫn thích chơi
trên những chiếc đu bằng tre
Một
cuộc đua thuyền trên sông Cần Thơ
Vào mùa nước cạn,
những chiếc cầu phao sẽ bổ sung cho đi
lại qua sông bằng những chiếc đò ngang.
Đặc
trưng của lối kiến trúc cổ là hình mái vòm
Chùa Láng,
ngôi chùa được xây dựng từ thế kỷ XVII
Với
người Pháp, Hồ Hoàn Kiếm được gọi
ngắn gọn là Hồ Nhỏ (Petit Lac)
Những
chiếc xe 1 bánh (kutkit) rất phổ biến
Thành
phố ven sông
Dân chúng
chơi trên những cái đu kết bằng tre
Phố Hàng Mắm với
đoàn người gánh các thùng gỗ đựng mắm
từ bến sông vào các cửa hàng
Những
con đường mới mở
Nguồn: http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/nhung-buc-anh-chua-tung-cong-bo-ve-viet-nam-cach-day-hon-100-nam-n20140521142308530.htm