SƠN ĐÔNG MÃI VÕ
Nguyễn Văn Sâm
Tư
Thẹo ngầy ngà vợ theo giọng trịch
thượng của kẻ cầm quyền quen thói lấn
lướt thiên hạ, đem lỗi lầm của
người khác chẻ ra làm năm làm mười.
- Tao dặn mầy năm
lần bảy lượt nhớ mua một cây mực Tàu
để làm màu trộn mấy viên thuốc tễ,
đầu óc mầy để đâu mà mầy hổng mua?
Bây giờ lấy gì tao trộn đây! Trắng nhách, ma nào
mà thèm. Mai bán không được một xu cho mầy
vừa bụng.
Cô Hai Hỏn chống chế:
- Kiếm cùng chợ
đỏ con mắt mà hổng thấy ở đâu bán
hết trơn hết trọi. Đất Sài Gòn rộng hằng
hà sa số chớ bộ nhỏ bằng cườm tay
như cái miệt Kinh Thứ của tui đâu mà tui rành.
Cô ngó thẳng vô mặt anh
chồng, nói thiết yếu như chịu lỗi:
- Để thủng thẳng
tui hỏi thế nào cũng kiếm ra chỗ bán mà.
Rồi cô ta cười
ngỏn ngoẻn:
- Tạm thời anh cạo
dưới đít chảo lấy một mớ lọ
nghẹ thế đỡ đi. Lọ nghẹ còn nên
thuốc gấp mấy lần mực Tàu nữa! Cũng
đen, ai vô đó mà biết.
Thấy chồng ơ hờ,
cô đỏng đảnh hỏi khó:
- Bộ anh hổng thấy
người ta đứt tay đứt cẳng, lấy
lọ nghẹ đấp vô để cầm máu sao?
Trong bụng Tư Thẹo
phục con vợ coi lẩm rẩm vậy mà sáng trí,
nhưng cũng phải nói cái gì đó cho ra vẻ, nên
gạt ngang gạt ngửa:
- Thôi đừng có nói tầm
ruồng bá láp mầy! Lọ nghẹ làm màu đen
để mầy vẽ mặt làm hề thì
được chớ nên thuốc cái khỉ mốc
họ. Cầm máu là bịt ở chỗ đứt, còn mình
đương trộn thuốc để uống trong
bụng mà. Khác như Tây trắng với mặt gạch
bộ mầy không thấy sao?
Anh ta làm thinh tiếp tục
giã giã nện nện cái chày đâm tiêu vô cái soong nhôm anh
kẹp giữa hai bàn chân. Một lúc lâu ớn mới
chắc lưỡi làm bộ như bị bắt buộc
lắm mới chịu bề chấp nhận đề
nghị của “đối phương”:
- Mà thôi cũng
được, mầy đưa cái chảo đây tao,
lấy con dao nữa để tao cạo, thiệt hết
chỗ nói... Mầy đi ngâm cam thảo với lại tán
mấy miếng quế đi. Nãy giờ tao giã nồi
cơm nguội nầy thiếu điều mỏi rụng
cánh tay. Phải giã thiệt nhỏ, hổng được
để sót một hột cơm nào. Mỏi quá mà sợ
cái tài ba trợn của mầy nên tao đâu dám giao.
Đưa cho mầy giã, mầy ngủ gục để
còn nguyên mấy hột cơm thì mụ nội tao cũng
lìa.
Cô Hai Hỏn cười
mỉm. Cô không giận chuyện anh chồng cô nói năng
lung tung lại còn kiếm chuyện rầy rà, giọng
điệu như ông nội người ta. Cô hiểu anh
chồng như một với một là hai, nói như
vậy nhưng y chang rốt cuộc là chấp nhận
đề nghị của cô. Cô vát hất mặt lên ngó anh
ta, mỉm cười thích chí nửa như tự ái đã
được vuốt ve, nửa để ngầm nói: “Tôi
cũng đâu ngu hèn, dốt nát gì, cũng quyền biến
chớ bộ. Đừng khi dễ con nầy!”
Mà cô thích chí cũng phải,
chuyện chạy đi mua thứ này thứ kia cô ghét
tận mạng. Không phải làm biếng làm nhác gì đó,
chỉ tại không biết chỗ bán mà thôi. In như
mười lần xách rổ đi chợ, tám chín lần
vừa đi cô vừa tính toán làm cách nào để bịt
miệng anh chồng ưa ăn hiếp vợ của cô.
Mua không được, về tới chỗ tạm trú,
quăng cái giỏ xuống cái xạch cô cự nự
trước khi Tư Thẹo kịp mở miệng:
- Đã nói ở đây thiên hạ
hổng có bán thứ mắc dịch mắc toi đó mà
cứ biểu giựt ngược, giựt xuôi. Ai giỏi
thì đi đi. Đừng biểu tui. Quê người
xứ lạ, tui có biết trời đất gì đâu
đâu? Sao hổng đưa tiền mua một lần cho
nhiều nhiều. Sợ tiền, cứ cà nhắc nay mua
một chút mai mua một chút bắt người ta tới
đâu đi mua chỗ đó ai biết ở đâu mà
kiếm. Lạ nước lạ cái lần nào cũng
lội muốn rã cặp giò. Bực mình thấy mồ
thấy tổ.
Biết cằn nhằn
như vậy không hợp lý, nhưng cô thấy cần
phải phủ đầu thằng chồng trước,
không thôi thằng chả được mợi làm tới
ai chịu đời cho thấu. Những lần bị
nự, Tư Thẹo chỉ biết ậm ờ bọc xuôi
cho qua buổi, rồi lui cui kiếm chuyện nầy
chuyện nọ làm, giả bộ không nghe.
Bữa nay chồng cô chịu
lấy lọ nghẹ thế mực Tàu thì tốt quá,
từ nay đỡ được chuyện trần thân
đi kiếm đã đành, mà còn thoát nợ luôn chuyện
mài mực nữa. Mài cả buổi mỏi tay bắt chết mới đủ
một chén, đâu có bàn ghế gì. Ngồi chồm hổm
có bữa tê cứng cặp giò.
Cô Hai Hỏn nói với
chồng sống bằng nghề hát xiệc cũng
được hai năm nay, sau mấy năm lăn lóc
kiếm ăn bằng đủ thứ nghề tạp
nhạp từ ngày Tây đổ bộ lên ngã ba Long Xuyên,
đánh thóc xuống Rạch Giá, tạt qua vùng Kinh Thứ,
quê cô. Cuộc sống cũng dễ thở, không có
những chuyện gì phải lo ngoài việc di chuyển
đồ đạc và kiếm chỗ vừa có thể
biểu diễn được, vừa có thể bán
thuốc. Đồ đạc đem theo cả gia tài sản
của vợ chồng không nhiều nhỏi gì lắm.
Mấy thứ lỉnh kỉnh như: phèng la, mười
tám thứ binh khí mà thằng chồng cô thường nói là “thập bát ban võ nghệ”,
quần áo võ của hai người và các thứ nồi niêu
soong chảo, mắm muối, gạo củi chất
đầy ba cái rương lớn. Đó là chưa kể
hai cái trống để bên ngoài với một cái
rương cũng trộng cải chứa “thuốc”
như “Sơn Đông hóa đàm chỉ khái tán”, “Sơn
Đông thanh huyết thần thủy” với lủ khủ
hộp, chai không mà vợ chồng cô mua sẵn ở
chợ Bình Tây, và những cái toa thuốc in bằng hai
thứ tiếng Tàu Việt được đặt in
ở một nhà in Tàu trong một hẻm nhỏ
dưới cầu Chà-Và Chợ Lớn.
Cuộc sống như
lục bình theo con nước nay đây mai đó, ngủ
đình, ngủ chợ lăn lóc bụi bờ, nay vô vùng
nầy hai ba bữa, mai ở vùng khác đôi ba ngày, tới
đâu hay tới đó, không nhà cửa nhứt định
coi vất vưởng lêu bêu, nhưng không có gì câu thúc
buộc ràng.
Họ đi lần lần
từ Rạch Giá lên Sài Gòn, bán nước miếng và
sức mạnh của người chồng, bán ba cái
đường quyền học lóm và cái mủm mỉm
của cô vợ, lây lất qua ngày. Miệt dưới
giặc giã khó sống. Bà con nội ngoại không còn ai.
Họ gặp nhau trong lúc hai đàng đều cù bơ cù
bất rồi bắt đầu vô nghề “Sơn Đông mãi võ” do sự gợi ý của
thầy Hai Hút mà họ làm quen được trong một
đêm nằm bót ở Cạnh Đền. Cứ như
vậy họ lăn lóc từ quê lên tỉnh, từ
tỉnh lần lên Sài Gòn, ăn uống kham khổ giới
hạn chi tiêu.
Tư Thẹo thường
bàn với vợ:
- Cứ ẩn nhẫn làm
nghề này thêm một đỗi nữa coi ra sao. Chừng
khá khá mình tính kế khác. Làm ăn kiểu nầy con bộ
không bền. Hoặc trầm ngâm chắc lưỡi:
“Đã đành thuốc mình không làm chết ai, nhưng mà
lợi dụng lúc thiên hạ đau ốm để moi
tiền thì mất phước đi. Về sau con cái tàn
mạt ngóc đầu lên không được! Túng ngặt
phải xoay sở chớ đâu thể nào bịp bợm
kiểu nầy hoài”.
Có một buổi chiều sau
khi tính toán chỉ tiêu trong ngày, Tư Thẹo cười
cười xếp tiền vô bóp
phơi nhét xuống một đáy rương, chồng
lên ba mớ quần áo, nắm tay vợ an ủi:
- Ráng kiếm đủ
tiền mua một căn nhà nho nho ở đất Sài Gòn
rồi giải nghệ, lựa công chuyện gì không “sát sanh hại vật”
để làm. Không lâu đâu em, anh tính rồi. Mình cũng
đủ chưn đủ tay chớ có đui què mẻ
xứt gì đâu mà cứ lần quần kiếm sống
bằng cái nghề mà thiên hạ biết ra thì thế nào
cũng chưởi ông chưởi cha đào mồ,
cuốc mả ông bà mình đổ xuống sông xuống
biển.
Cô Hai Hỏn cảm động
rưng rưng. Một thân bơ vơ gá nghĩa rồi thì
anh dẫn đi đâu em theo đó. Chồng khôn thì vợ
được nhờ. Anh muốn tính sao thì tính. Cô bóp bàn
tay chồng, mỉm cười đồng tình.
Được mợi, anh ngó vô mặt vợ nói thiệt
tình tứ:
- Mà tui cũng không muốn em
cười tủm tỉm, liếc ngang liếc dọc
với thiên hạ nữa. Mệt tim quá. Mỗi lần
thấy em cười duyên với họ là tui mệt
cầm canh, còn hơn biểu diễn cả tuần.
Anh đứng dậy nheo
mắt:
- Cười với qua nè
cưng, cười bao nhiêu qua cũng nhận hết.
Cô Hai Hỏn háy chồng
một cái bén ngót còn hơn con dao cầu xắt thuốc:
- Ứ! Lãng xẹt. Vợ
chồng già mà còn bày đặt ghen bóng ghen gió. Làm như
thương lắm vậy.
Tư Thẹo cười
ruồi:
- Hổng thương?
Hổng thương mà người ta bỏ chức anh
chị bến xe đò ở miệt dưới để
trôi nổi với em lên tới đất Sài Gòn nầy,
rồi còn tính bỏ xứ sở trụ luôn với em
tới mãn kiếp trên nầy?
Mặt trời bắt
đầu tạo nên một bửng sáng lờ mờ
ở chân trời sau một đêm dài ngủ kỹ. Đâu
đây mấy ngọn đèn đường hết
thời trơ trẽn buông những tia sáng vàng vọt,
ẻo lả vô duyên như mấy ả ăn sương về
già còn cố níu kéo những ngày tàn không biết hổ
ngươi.
Mặc dầu ngày cũ
chưa thật sự chấm dứt, sinh hoạt của
một ngày mới đã lục tục bắt đầu.
Trong mấy đường hẻm nhỏ dẫn ra từ
các khu lao động mấy người đàn bà kẻ
bưng rỗ, người gánh, người gồng lũ
lượt đem hàng ra chợ sớm. Trong không gian yên
lặng của buổi bình minh, tiếng nói cười
của họ tạo thành một bản nhạc vui
tươi đầu ngày. Chừng độ mười
lăm phút, nửa giờ sau, khi mặt trời bắt
đầu vắt một dải mây hồng lợt xa xa,
thì mấy cô cậu học trò cũng rủ nhau tới
trường. Mấy đứa con trai trong bộ
đồng phục quần xanh áo trắng đua nhau gõ
guốc lộp cộp xuống đường phố
tráng nhựa vẫn còn thưa thớt xe cộ qua lại.
Mấy đứa con gái sạch sẽ trong bộ bà ba
trắng, tóc kẹp sau ót nâng niu cái cặp bàng cẩn
thận, tay xách bình mực tòn ten, vừa đi vừa nói
chuyện líu la, líu lo hồn nhiên vô tư lự…
Đường xá chưa hoàn
toàn thức giấc nhưng mấy tiệm nước
ở đầu ngã tư đã mở cửa từ
hồi nào, khách khứa ăn uống ồn ào, xe máy
xếp thành từng hàng dài trước cửa. Mấy
đứa nhỏ nghèo khổ đã bắt đầu
thập thò trước cửa tiệm chờ khách ăn
rồi ngửa tay kể lể xin xỏ một vài cắc
lẻ. Trong tiệm mấy người hầu bàn đứng
xa nhà bếp đua nhau kêu đặt thức ăn vọng
vô trong “dách cô phế nại
lượng cô tài báo” giọng điệu ê a kéo dài hòa
với tiếng bàn toán lóc cóc của người tài phú
tạo thành một không khí thanh bình giả tạo ngay
từ sáng sớm của một thành phố chưa thiệt
sự biết mùi chiến tranh dầu tiếng súng xa xa lâu
lâu vọng lại hay thỉnh thoảng ai đó liệng
một trái mảng cầu
vô rạp hát hay vô đám đông.
Thỉnh thoảng một
chiếc xe ngựa đầy nhóc bạn hàng đi chợ
sớm, lọc cọc chạy ngang, móng ngựa gõ nhịp
nhàng trên mặt lộ tạo cung bậc thật riêng tư
của thành phố buổi sáng sớm, âm thanh nhỏ
lần rồi mất biệt ở phía xa.
Trời đất càng lúc càng
sáng tỏ, tiếng chuông xích lô “king
koong king koong” mỗi lúc
một nhiều hơn. Tiếng nổ dòn tan của
mấy chiếc xích lô máy và tiếng thở khình khịch
của chiếc xe ô tô buýt tài nhứt báo hiệu sự sinh
hoạt của một ngày nữa đã thật sự
bắt đầu…
Chiếc xe thổ mộ
từ phía Ngã Sáu chạy tới, ngừng lại chỗ
đám đất trống ở khu “Ngã Ba Vườn Lài”. Tư Thẹo lẹ làng
nhảy xuống từ phía trước, chỗ hai cái càng
kẹp bên hông ngựa. Cô Hai Hỏn cũng lục
đục khệ nệ với mấy cái rương dụng
cụ thuốc men ở phía sau. Hai vợ chồng
đứng ngắm nghía khu đất xung quanh một lát
rồi cùng nhau hè hụi dọn đồ đạc
tới kế bên cái mả lạn với sự giúp sức
của người đánh xe.
Cô Hai Hỏn đã bận
sẵn cái quần võ, ống bó túm phía dưới, mang giày “bata” áo xẩm cụt tay.
Ở mỗi cườm tay cô đeo một chiếc vòng
dẹp bằng thiếc theo kiểu con nhà võ trong các
tuồng hát của đoàn Cầu Muối-Cầu Quan hay
đoàn hát bội ở đình Thành Xương…
Cô lấy dùi, phèng la rồi xách
cái trống ra đầu kia tấu lên bản nhạc
đặc biệt của đoàn “Sơn Đông mãi võ”: Cờ lùng tùng xà, cờ lùng
tùng cà, cờ lùng tùng xà… Cô đánh trống nhịp nhàng say
sưa nhưng vẫn liếc chừng người qua
lại. Mặt cô sáng lên khi thấy tiếng trống đã
thu hút được số đông người mau chân tò
mò…
Tư Thẹo dặn
người đánh xe:
- Chiều nay chừng sáu
bảy giờ anh trở lại đón tụi tui nghe.
Đi lợi đằng vườn Bà Lớn! Tối nay tụi
này ngủ tạm ở miếng đất trống đằng
đó. Mai làm một bữa nữa ở khu chợ
đầu đường Hai Mươi. Rồi tính sau.
Người đánh xe vui
vẻ:
- Được mà! Chiều
nay tui lợi đây khoảng đó. Có lẽ tui sẽ
bỏ chuyến chót.
Anh lại cười
thật cởi mở:
- Chuyến chót thường
vớt được nhiều mối ngon hơn chuyến
thường, nhưng mà hổng sao. Nhằm nhò gì! Hổng
biết nhau thôi, biết nhau rồi thì là anh em hết.
Thế nào tui cũng trở lợi, anh đừng lo.
Rồi anh nheo mặt vỗ
vai Tư Thẹo như bạn tri kỷ:
- Nhưng mà anh biểu
diễn cho cẩn thận nó nghe, thấy anh làm sao mà tui
ớn lạnh xương sống. Có bề gì khó lòng
lắm!
Tư Thẹo cười
cười rồi cũng vỗ vai người bạn
mới mà anh ta thấy có cảm tình ngay khi mới gặp lần
đầu:
- Coi ghê vậy chớ
hổng sao đâu anh. Tui có nghề mà. Hổng thôi bộ tui
điên sao mà đút đầu vô chỗ chết?
Tư Thẹo đưa tay ra
để “bổ xua” như
dân Sài Gòn chánh hiệu con nai:
- Thôi anh đi kẻo trễ
họ vớt hết mối ngon.
Bây giờ đám con
nít nghe tiếng trống đã tụ lại bộn bàng, chỉ
trỏ, bàn tán. Tụi nó khoái nhứt và cũng lạ lùng nhứt
về bộ đầy
đủ mười tám thứ binh khí của Tư Thẹo.
Chúng còn bàn ngang tán dọc rằng lát nữa chị đàn
bà sẽ đấu với thằng cha đàn ông bằng mấy
thứ khí giới nầy, và chắc chắn nữ tướng
sẽ thắng vì đàn bà nhẹ nhàng, lanh lợi hơn
đàn ông, đấu võ thì thua vì sức yếu hơn,
nhưng đấu thương đao, xà mâu thì ăn chắc.
Một đứa làm
lanh nói oang oang:
- Mầy hổng thấy
hồi hôm cô đào chánh của gánh Tỷ Phượng mần
tuồng "Đào Tam Xuân loạn trào" đánh rạp
hết mấy kép khác sao? Tao nói để rồi mầy coi
có trúng phóc không thì biết. Tướng tá cô nầy còn
điệu hơn cô đào đó nữa.
Cô Hai Hỏn nghe không
sót một tiếng nào. Thằng đó nói bô bô cái miệng, ý
chừng muốn chứng tỏ với chung quanh rằng
mình "ta đây". Cô không nói không rằng gì hết,
đi nhiều, gặp mấy đứa nhạy miệng
như vậy không phải lần nầy là một. Cô buông
dùi trống, cầm phèng la vừa đi vừa xát vô đám
nhỏ vừa đánh chát chúa. Tụi nhỏ bị điếc
tai né né lui ra từ từ. Giáp một vòng thì cái vòng tròn con
nít ở phía trong cái vòng người lớn, đã nở ra
bộn bàng. Miếng đất trống này còn quá rộng.
Vòng người cần phải bự hơn để khi
biểu diễn khỏi vướng tay vướng chân.
Nghĩ vậy nhưng cô vẫn không có hành động nào
để giải quyết. Chuyện đó để ảnh
lo sau. Cô để cái phèng la lên trên nắp rương rồi
mở một rương khác lấy ra cái áo chẽn có gắn
những miếng thiếc tròn tròn sáng chói lẹ làng mặc
vào người.
Bây giờ cô Hai Hỏn
không còn có vẻ một người thường nữa.
Cô có hình dáng một nữ tướng như Sở Vân, Phàn
Lê Huê, Lưu Kim Đính, Đào Tam Xuân, Mộc Quế Anh
trong các gánh hát Hậu Tấn, Tiếng Chuông, Phước
Chung…
Đoàn người
bu chung quanh đã khá đông. Con nít tuy nhiều, nhưng số
người lớn coi bộ cũng đã khả quan,
Tư Thẹo liếc quanh để lượng định
khả năng tiêu thụ của họ. Đằng kia mấy
ông già ho xù xụ. Lại có một người chống gậy
nữa. Tốt, mấy người coi bộ bịnh hoạn
yếu đuối này vậy mà rất có ích lợi, thế
nào họ cũng mua vài hộp “Sơn
Đông trường lực hoàn” của mình. Không đến
nỗi ế như biểu diễn ở chợ Cây Điệp.
Vài cậu thanh niên chải đầu bảy ba, mắt ngó
vợ chồng Tư Thẹo mà thỉnh thoảng liếc
liếc mấy cô tân thời trước mặt. Mấy cô
cậu này mượn mình để đảo nhãn, bắt
cặp với nhau đây. Nhưng mà mình sẽ khích tướng
tụi nó. Thế nào cũng trúng mối. Mấy cô cậu
này chắc là bộn xu. Có ăn của họ mấy đồng
bạc chắc chết xuống cũng không có tội gì
đâu. Tư Thẹo nghĩ trong bụng như vậy rồi
lẹ làng xuống tấn đi một đường
đao ruột. Anh hươi bên này, chỉa bên kia, vớt
bên nọ, phạt ngang phạt dọc, chém dưới, hớt
trên thiệt lẹ làng dũng mãnh. Thỉnh thoảng anh lại
chêm vào ngón nghề “hồi mã
thương” đang múa như bão táp mưa sa phía trước
anh dậm chân quay lại vít như chớp phía sau. Người
coi chung quanh chắc lưỡi hít hà nức nở, thán phục
tài nghệ…
Tuy lo biểu diễn,
Tư Thẹo vẫn không quên mục tiêu của mình nên lâu
lâu anh nhắm ngay chỗ mà cái vòng người cần phải
dãn ra vớt lia lịa, mấy đứa nhỏ nghe tiếng
đao xé gió vù vù tới, đứa nào đứa nấy
xanh mày xanh mặt, bò lê bò càng ra xa, người lớn vừa
né vừa thụt lùi làm mấy người ở sau bị
đẩy xô, la ơi ới.
Tư Thẹo múa hết
đường đao thì cái vòng người đã tròn trịa
lại rộng thêm ra bộn bàng. Anh nhắm nhía công trình mình,
mỉm cười đắc ý rồi mới quảng cáo:
- Kính thưa bà con cô
bác. Hôm nay đoàn Sơn Đông Việt Nam chúng tôi hân hạnh
ra mắt bà con cô bác ở xóm “Vường Lài” này. Mục
đích chúng tôi là cứu nhân độ thế (vợ Tư
Thẹo chấm nghỉ bằng một nhịp trống cờ
lùng tùng xà), là giúp ông già bà cả trường lực mạnh
mẽ (cờ lùng tùng xà), là giúp cho các em nhỏ vui
tươi hoạt động (cờ lùng tùng xà), là giúp cho
người bịnh hoạn mau chóng bình phục, sởn
sơ (cờ lùng tùng xà), là giúp cho người đau mới
mạnh ăn ngon ngủ khỏe (cờ lùng tùng xà)…. Hôm nay
chúng tôi đem cống hiến bà con cô bác ở quanh đây
môn thuốc gia truyền “Sơn
Đông trường lực hoàn” (cờ lùng tùng xà, cờ
lùng tùng xà). Đó là…
Tư Thẹo thao thao
bất tuyệt, anh lặp đi lặp lại về công
dụng thần sầu quỷ khốc của những viên
thuốc tễ cơm nguội trộn cám với lọ nghẹ
cam thảo, quế mà vợ chồng anh chế hồi tối
hôm qua. Rồi anh đề cao những người chung
quanh lên tới tận mây xanh, nào là biết xài tiền
đúng chỗ, biết lo cho sức khỏe của mình, biết
thương những người thân thuộc. Mua thuốc
cho mình hay mua tặng người thân là một hành động
vô cùng cao quý có một không hai…
Anh phùng mang trợn mắt,
tán dọc, tán ngang bài học cho mọi người bị
trí tò mò mà thúc đẩy một lúc thiệt lâu anh mới lục
rương đưa cho họ thấy những viên thuốc
tròn trĩnh, bọc trong giấy kiếng trong trong, đài
các như mời mọc mọi người.
Tư Thẹo tiếp
tục ba hoa:
- Chúng tôi là đại
diện cho nhà thuốc chánh bên Hồng Kông, bữa nay tới
đây bán làm quảng cáo nên chịu lỗ, bán một tặng
một… (cờ lùng tùng xà). Chúng tôi chỉ đi qua mỗi
địa phương một lần thôi, bà con cô bác không
mua hôm nay sẽ không có dịp gặp cái may lần thứ
hai. Mại vô! (cờ lùng tùng xà).
“Ông Hai bên này muốn mua. Cô Ba bên kia muốn mua. Cậu
Hai này muốn mua”. Tư Thẹo dựng đứng
lên chuyện có người mua. Anh làm bộ như thiên hạ
đã chờ sẵn để anh tới làm người cứu
tinh.
- Nhưng mà bây giờ
chưa tới giờ bán. Thành thật xin lỗi và con cô
bác. Xin lỗi ông Hai, xin lỗi cô Ba, xin lỗi cậu Hai,
chúng tôi bán sau khi biểu diễn một màn thật hấp
dẫn để bà con cô bác thấy được công hiệu
của thuốc “Sơn Đông
trường lực hoàn”. Trước khi biểu diễn bà con cô bác muốn
mua một trả mười chúng tôi cũng không dám bán. Chúng
tôi được lịnh chỉ bán sau khi đã chứng tỏ
cho bà con cô bác thấy rõ cái sức mạnh mà thuốc “Sơn Đông trường lực
hoàn” đem lại cho người dùng nó mà thôi.
Vợ Tư Thẹo
chấm dứt màn quảng cáo của chồng bằng một
hồi trống thiệt dài, đinh tai nhức óc…( cờ
lùng tùng xà), (cờ lùng tùng xà), (cờ lùng tùng xà)…
Có lẽ thấy bao
nhiêu đó đã đủ, Tư Thẹo chất chồng
mấy hộp thuốc lên cái rương rồi lấy cây
kích ra lau lau đầu nhọn. Bỗng anh phóng phập cây
kích lún xuống đất sát chân mấy đứa nhỏ
láu táu nhứt bọn, cứ lâu lâu xích vô làm cho cả vòng
người méo đi. Cán kích rung rung. Đầu kích lún xuống
đất hơn một tấc. Mọi người trầm
trồ khen ngợi tài phóng kích của Tư Thẹo, chính
xác và mạnh mẽ. Mấy đứa nhỏ hết dám hó
hé. Chúng bảo nhau giữ trật tự, có thằng còn rầy
những đứa lấn ra
khỏi cái vòng tròn tượng tượng của người
bầu gánh Sơn Đông.
Có tiếng một bà
già trầu nói nhỏ với người kế bên:
- Thằng cha Sơn
Đông nầy giỏi thiệt, nhưng mà nó ỷ tài làm ẩu
rủi gặp năm vận tháng hạn tụi nhỏ xô
nhau có đứa ngã tới trước phải nó bị bắt
thường nhân mạng không? Cái đó mới ở tù lãng
xẹt à nhe!
Người kế
bên binh vực Tư Thẹo:
- Dễ hông? Năm
khi mười họa mới có một lần, người
ta làm người ta đã tính trước rồi. Mấy
người Sơn Đông nầy trước khi ra nghề
họ đã học kỹ rồi, thành tài mới ra làm, hổng
thôi gặp mấy người thầy võ thứ thiệt
đòi tỷ thí, đòi đả lôi đài thì sao?
Tư Thẹo nghe câu
được câu chăng nhưng anh cũng khoái trong bụng,
không dè mấy ngón đòn học lóm của đám anh chị
xe đò lục tỉnh lại được đánh giá
cao như vậy. Anh nói lớn:
- Bây giờ tôi cần
một anh thanh niên nhổ cây kích rồi giúp tui chuyện
này.
Đám đông chung
quanh yên lặng hoàn toàn. Người này ngó người kia.
Ai cũng muốn có một người bước ra
nhưng người đó không phải là mình. Họ không biết
Tư Thẹo muốn gì. Họ sợ phải đứng
trước đám đông, trăm mắt dòm vô “giữa thập mục sở thị”
mà mình làm gì sơ xuất hay
thua sút thì sẽ bị làm trò cười. Mất mặt bầu
cua chết. Ở đây đâu chỉ toàn ông già bà cả với
mấy đứa nhỏ thôi, còn mấy cô nữa chi?
Tư Thẹo hiểu
tâm lý e ngại đó của mấy cậu thanh niên nên cố
gắng thuyết phục, anh ngó ngay một thanh niên chải
đầu tém kiểu kép hát Út Trà Ôn, giải thích:
- Tôi không dám nhờ
anh em làm chuyện gì khó. Anh em cứ mạnh dạn bước
vô chỉ làm điều gì tôi nhờ mà thôi. Không có chuyện
tỷ thí đâu. Rừng nào cọp
nấy. Tôi đâu dám làm chuyện thất sách.
Mọi người vẫn
yên lặng. Người này thúc cùi chỏ chỗ người
kia, nhưng không một ai bước ra khỏi vòng tròn.
Bỗng có tiếng
nói lớn:
- Có thằng Tây với
ba thằng mặt gạch đây. Nếu anh có giỏi thì
kêu tụi nó làm. Tụi tui mới phục.
Những người
khác phụ họa nhao nhao:
- Phải phải. Giỏi
thì bắt mấy thằng Tây làm coi thử.
Tư Thẹo dòm chung
quanh. Mấy anh thanh niên nầy bún
thiêu quá. Chắc mẩm là họ nhát rồi. Nhưng mà
mình cũng không muốn lộn xộn với mấy thằng
Tây làm gì. Tây u khó lòng lắm. Tư Thẹo bối rối
còn chưa biết tính sao. Anh đưa mắt hỏi ý kiến
vợ. Cô Hai Hỏn nhìn anh nhưng cũng không nói gì. Anh thấy
mình phải quyết định mau. Chỉ ngại ngôn ngữ
bất đồng, chớ còn sức lực thì không có gì phải
lo ngại. Anh liếc mắt về chỗ mấy thằng
Tây đang bá vai, cọ vế mấy ả tân thời. Một
thằng trắng. Ba thằng đen. Thằng trắng có vẻ
hiền từ nhất và nhỏ con nhất. Có thể đối
phó được. Anh bước tới trước mặt
nó, đưa tay làm dấu mời nó ra nhổ cây kích lên. Thằng
Tây trố mắt nhìn anh. Nó ngạc nhiên hết cỡ nên
quay lại hỏi cô bạn đứng kế bên. Cô này hất
mái tóc quăn của mình ra sau ót rồi xí xô một tràng. Thằng
Tây rẽ ra khỏi đám đông ra ngoài. Nó ơ hờ
đưa một tay nhổ cây kích lên. Chắc trong bụng
nó nghĩ rằng không cần phải dùng hết sức.
Nhưng nó đã lầm, cây kích gắn chặt xuống
đất làm cho nó phải lấy thêm tay kia phụ sức
mới nhổ lên được. Nó cầm cây kích thủ
theo thế võ cận chiến của súng gắn lưỡi
lê chỉa lia lịa vô bụng Tư Thẹo.
Ngoài kia có những tiếng
kêu trời nho nhỏ. Một vài người nhát gan
đưa tay lên ngực như sắp bị đứng
tim. Trong nầy Tư Thẹo điếng hồn, anh ta thụt
lùi lại mấy bước.
“Thấy ông bà ông vải
hông? Thằng nầy nó khùng lên giở cận chiến để
đánh với Việt Minh ra ở đây thì mệt cầm
canh. Tiếng Tây tiếng u mình ù ù cạc cạc làm sao cho nó
hiểu được”. Tư Thẹo thấy tức mình,
tức luôn anh thanh niên đã đưa đề nghị xỏ
lá nầy. Tuy vậy anh vẫn làm tỉnh, vừa cười
vừa khoát tay vừa xổ cái vốn liếng tiếng
Tây không bằng lá mít của anh:
- Nông. Nông. Mông xừ!
Thằng Tây hiểu ý
dừng bộ lại. Cô Hai Hỏn đã đứng bên nó
lúc nào, mỉm cười tay đưa ra đỡ lấy
cây kích rồi ra dấu cho nó biết những gì nó phải
làm.
Cô xuống tấn, cấp
cán kích vô nách hướng về Tư Thẹo. Tư Thẹo
tới gần, xuống trụ, hai tay gồng lên để
lộ ra những bắp thịt cuồn cuộn, đồng
thời anh nín hơi, vận nội công, bạnh cầm ra
để chuyển hết sức mạnh vô cần cổ.
Bây giờ người chung quanh mới chú ý thấy chỗ
yết hầu anh có vài dấu lủng cạn, đen
đen. Cô Hai Hỏn đưa đầu nhọn của
cây kích vô đó và ra bộ đẩy tới. Tư Thẹo
bấu mấy ngón chân chặt xuống đất sẵn
sàng cuộc biểu diễn. Thằng Tây bây giờ đã hiểu
nó phải làm gì. Nó lấy cây kích từ tay cô Hai Hòn, nó
cũng cặp cán kích vô nách chịu thế để đẩy
vô yết hầu của anh Tư Thẹo. Tư Thẹo
lượng sức địch thủ: “Thằng nầy
coi vóc vác vậy mà chắc không bền, chưa gì hơi thở
đã không điều hòa rồi. Nó đi chung với mấy
cô tân thời ra đây quá sớm. Thế nào nó cũng tiêu
tán sức lực nhập trận hồi tối hôm qua. Chắc
chắn không còn bao nhiêu xí quách nữa đâu. Không cần hạ
nó ngay. Cần phải làm cho nó không cảm thấy mất mặt
mà người coi thích thú mới được”.
Nghĩ vậy cho nên
Tư Thẹo không dùng hết sức mình. Anh chỉ giữ
tấn chịu đựng để khỏi bị đẩy
lui chớ không lấn tới. Thằng Tây dùng hết sức.
Nó phùng mang trợn mắt. Hai cằm bành ra, môi mím chặt,
cố hết sức để đẩy lui đối thủ.
Chân mặt của nó cong lại, chiếc giày trận bấu
chặt vô đất, chân trái duỗi thẳng ra, gót ấn
mạnh xuống để làm điểm tựa. Nó hy vọng
hạ đối thủ bằng cách dùng hết sức mạnh
của mình ngay từ lúc đầu.
Cái vòng tròn người
trước đây xôn xao, nhúc nhích bây giờ như
được làm bằng một khối kim khí, bất
động, lặng trang. Có người nín thở, có
người mím môi làm như là mình đương đấu
sức với thằng Tây ngoài đó chớ không phải là
Tư Thẹo.
Cô Hai Hỏn nãy giờ
vẫn đánh trống và gõ phèng la đều đều.
Nhạc trống Sơn Đông giờ đây có vẻ
như nhịp trống trận, có tác dụng như thúc hối
cổ võ hai bên ráng đem phần thắng về mình.
Tư Thẹo thấy
biểu diễn bao nhiêu đó đã đủ. Mười
phút rồi còn gì. Chắc bà con đã thỏa mãn, không cần
kéo dài thêm nữa. Anh ngó ngay mặt đối thủ tên này
hít hơi vô buồng phổi anh thụt một bước
dài ra sau. Thằng Tây khoái chí quên chuyện thở, nhón cẳng
bước tới… Lẹ như chớp, Tư Thẹo
nương lúc địch thủ đứng một cẳng,
cẳng kia chưa kịp để xuống đất
đẩy mạnh tới. Thằng Tây bị phản công bất
ngờ xiểng niểng, gượng không được,
phải bước lùi năm sáu bước. Tư Thẹo
lẹ làng đưa tay nắm đầu kích, dằn mạnh
một cái tuột khỏi tay thằng Tây. Anh cầm ngang
đưa lên trời để làm dấu chiến thắng
rồi đưa tay ra bắt tay đối thủ tỏ
ý thân thiện. Thằng Tây ngạc nhiên trước sức
mạnh của Tư Thẹo, nó phục ra mặt nên lẹ
làng đưa tay ra vừa bắt vừa nói một tràng tiếng
Tây, Tư Thẹo không hiểu gì nên chỉ nhe hàm răng ra
cười cầu tài.
Có tiếng một cô
gái son phấn đâu đây nói lớn:
- Nó nói nó phục anh lắm
đó. Nó nói nếu anh ở bên Tây thì anh làm giàu bởi vì
người ta sẽ mướn anh đóng phim, anh sẽ nổi
tiếng.
Tư Thẹo “mẹt xi” lia lịa.
Vừa lúc đó
Tư Thẹo bỗng nghe tiếng xôn xao rồi tiếng
gió rít sau lưng, với phản ứng tự nhiên của
người từng đụng độ dao búa nhiều lần
anh tràn mình tránh khỏi. Thằng mặt gạch đánh lén
anh mất đà chới với, anh đưa tay đẩy
nhẹ vô lưng nó. Nó chúi nhủi tới trước.
Tư Thẹo còn đương chưa biết chuyện
gì xảy ra thì hai thằng mặt gạch khác đã lách
đám đông ào ào nhảy vô.
Có tiếng đàn bà
la hét bằng một thứ tiếng Tây ba rọi. Nhưng
tình thế đã tới lúc không còn thể cứu chữa nổi.
Tư Thẹo thấy cần phải cho tụi nó sợ
nên anh nhảy tới đá vô mặt một thằng khi tên
này xông tới định bóp cổ anh. Nó nhào lộn hai ba
vòng, chổng bốn vó lên trời rồi nằm yên không
nhúc nhích. Hai tên còn lại thấy vậy nên khựng lại
thủ thế. Tư Thẹo hét lớn về phía mấy
cô tân thời đã cặp kè với mấy thằng trời
đánh nầy hồi nãy:
- Mấy cô nên lôi mấy
ông trời con nầy đi không thôi tụi nó chết hết
mất công lắm à.
Rồi anh cúi xuống
đỡ tên bị đá ngồi dậy, mắt vẫn
lom lom ngó chừng hai thằng kia. Mấy cô bạn của tụi
nó thừa dịp nầy ào ra vừa xỉa xói vừa vả
lia lịa vô mặt hay đấm thùm thụp vô lưng
chúng rồi kéo chúng ra về. Mọi người thở
phào nhẹ nhõm. Một vài người vỗ tay rồi
đám đông vỗ tay rần rần. Họ hoan hô vang trời
dậy đất. Một vài người buột miệng:
- Vậy mới phải
là người làm nghề Sơn Đông mãi võ. Vậy mới
đáng mặt anh hùng: tài nghệ, bình tĩnh, độ
lượng, biết tấn công đúng lúc.
- Cái đá của anh
ta cao quá. Tui thấy bộ dạng mấy thằng lính
“săn đá” đó là tui ớn rồi, mà anh ta hạ thằng
lớn con nhứt như chơi. Tụi nó coi hùm hổ, thằng
nào thằng nấy mạnh như con trâu cui mà phải xếp
vó chịu thua, vậy mới biết nghề của anh này
khá tới mức nào.
Có tiếng khác gắn
liền với thời sự:
- Có vậy tụi nó
mới nể người Việt Nam. Việt Nam mình có thua
ai?
Vợ chồng Tư
Thẹo trao đổi ánh mắt lo ngại với nhau. Qua
cơn biến động bây giờ họ mới thấy
sự rắc rối của câu chuyện. Nếu mấy thằng
đó nuốt giận chịu thua thì dễ. Nếu tụi
nó tức khí về trại ở
đường Hui-Bon-Hoa kéo cả lũ tới thì mệt
cầm canh. Mà bây giờ thế đã cỡi cọp không thể
leo xuống được. Phải tiếp tục chuyện
bán thuốc. Sớm mơi tới giờ có bán thuốc. Sớm
mơi tới giờ có bán được cắc nào
đâu. Không lẽ dọn đồ nghề ra về?
Cô Hai Hỏn lanh trí
không cần hỏi ý chồng, cô cầm lên cả chục hộp
thuốc bắt đầu giọng quảng cáo kích động:
- Kính thưa bà con cô
bác. Chắc bà con cô bác đã biết nhờ đâu anh này có
thể hạ mấy thằng “săn
đá”? Nhờ đâu anh ấy có sức mạnh như
vậy? Đó là nhờ thuốc “Sơn Đông trường lực hoàn”. Sơn
Đông trường lực hoàn là thứ…
Bữa đó vợ
chồng Tư Thẹo bán không còn một viên thuốc giả
để… làm thuốc.
*
* *
Chú Tư với tay lấy
cái bình tích chế nước nóng pha lợt ly cà phê trước
mặt, đưa muỗng quậy liên tu bất tận
như để che dấu một sự bối rối gì
đó, nói một câu không ăn nhậu gì hết với câu
chuyện vừa kể:
- Cà phê bắp rang coi
vậy mà cũng tới quá chớ. Hết cà phê Ban Mê Thuộc,
mậu[i]
cà phê Martin thì mình xài cà phê bắp rang cũng được.
Chết ai? Đâu cũng vô đó.
Chú xòe bàn tay
đưa ra trước mặt làm một cử chỉ mời
rồi hớp từng ngụm nhỏ, thưởng thức:
- Chú ám chỉ cái gì
con nít còn bồng cũng còn biết đâu cần phụ họa.
Ngồi cho vui chớ tôi chạy tét ba cái nước đen
đen khét khét mùi vị không ra đám ôn gì mà còn tốn tiền.
- Mà sao chú Tư với
thím Tư giải nghệ đi?
Chú Tư xoay xoay cái
ly, cặp mắt xa xăm, giọng trầm ngâm:
- Phải giải nghệ,
chơi trò xí gạt thiên hạ hoài bụng dạ không yên.
Nhiều khi tôi tức mình sao cứ làm những chuyện
chúng rủa không. Nhỏ thì đi theo tụi đá cá lăn
dưa giựt đồ của bạn hàng trong chợ, lớn
lên một chút thì theo mấy tay anh chị đứng bến
xe đò hún hiếp người cô thế. Lúc mê bả thì
đi làm Sơn Đông mãi võ, gạt bán thuốc cơm nguội
cho chúng, không có lúc nào làm ăn lương thiện hết.
Tôi thấy mình cần
phải nói câu gì đó để làm nhẹ đi
lương tâm của chú.
- Bề gì chú cũng
đã ray rứt mấy chục năm nay rồi.
Tôi muốn nói chú
như ông ăn cướp có lòng thành sau đó được
thành Phật, trong chuyện đời xưa “Sự tích con chim bìm bịp”
nhưng nín kịp, sợ mích lòng, chỉ nói ầu ơ ví
dầu:
- Mà cả chục
năm nay từ ngày chú thím tới mở tiệm tạp hóa
ở xóm nầy tới giờ, tôi đâu có thấy chú bị
tai tiếng gì đâu nà. Có thể nói chú là một trong số
ít người tốt nhứt ở xóm chợ Bà Chiểu
này nữa là khác.
Chú Tư cười
hề hà:
- Thì vậy chớ
sao, bỏ nghề đạo tặc rồi. Tu. Tu nhà, tu chợ.
Rồi chú tâm sự:
- Hồi đó,
đâu một ngàn chín trăm năm mốt, năm hai gì
đó, tôi giải nghệ nghề Sơn Đông vì tức mấy
thằng Biện Chà đá đít liệng đồ. Tụi
nó vui thì thôi, mình đánh trống múa lân nó cũng làm thinh, chừng
buồn buồn lựa lúc mình đang bán thuốc đuổi
thiên hạ đi lại còn liệng đồ đạc của
mình. Tức cành hông mà phải dằn: đời dân nô lệ
nó chó đẻ vậy đó, không có tự do.
Chú bóc gói thuốc
"Ba con Năm" nội
hóa vấn bằng lá cờ, bập bập tiếp:
- Thét rồi[ii]
tôi chán, giải nghệ mua một căn nhà lá ọp ẹp
ở đường Hai Mươi gần vườn Bà Lớn.
Tôi làm thuê vác mướn, bả vá may bậy bạ cũng
đấp đổi qua ngày.
Mấy đứa nhỏ
con ai không biết, rủ nhau tới tiệm dòm lom lom vô tô hủ
tiếu của một hai người thực khách hiếm
hoi đương ngồi xa xa đầu kia. Chúng chỉ
trỏ xí phần rồi cãi nhau om xòm. Chú Tư theo dõi không
xót một cử chỉ nào cái hoạt cảnh đáng buồn
trước mặt.
- Lúc đó tôi chưa
có xấp nhỏ, để dành cũng dễ. Chắt mót
đâu được một thời gian thì mua được
căn nhà cũng khá khá ở chợ Bàu Sen...
Nói tới đây mặt
chú buồn buồn, chú thở dài sườn sượt:
- Bôn ba không qua thời
vận, chắt mót rồi cũng đút cho bà hỏa hết.
Tôi đi làm, bả ra chợ, nhà cháy không còn một tấm
giẻ rách để bận, ôm hai đứa con tụi tui
thiếu điều tự vận.
Tôi hỏi để
làm loãng không khí u ám của câu chuyện:
- Phải trận cháy
lớn quá mạng khoảng một ngàn chín trăm năm
mươi ba đó không? Hồi thiên hạ đồn vợ
nhỏ Hùm Xám Cai Lậy đốt nhà đồng bào để
bán tôn chớ gì?
Chú Tư nhích mép
như mỉm cười xác nhận, chú nói giọng nhân
đức của người có thiện tâm:
- Thì lúc đó đó,
nhưng mà mình cũng không biết ai đốt, đốt
để làm gì. Nghe đồn bậy bạ đề án tử
người ta, không có thiệt thì tội chết.
Chú xuống giọng
như ông già bảy mươi:
- Ở đời kỵ
nhứt là kết tội người ta mà mình không biết
hư thiệt như thế nào. Ghét ai phao phản người
đó là này là nọ, tôi thù tận mạng mà cũng không bao
giờ tôi làm. Oan cho người ta tội nghiệp. Bây giờ
nè...
Tôi thấy cần tốp chú Tư lại, bẻ
đề tài câu chuyện qua một góc nhìn chín chục
độ:
- Chú Tư biết
không, lúc nhỏ tôi mê coi Sơn Đông mãi võ số một.
Tôi đâu có biết thuốc của họ hay dở thế
nào. Hồi đó tôi nhỏ hí với lại có thử lúc
nào đâu mà biết nhưng mà tôi ưa coi họ múa võ lắm.
Nhiều khi đợi họ mấy tiếng đồng hồ,
bực mình thấy mồ, họ cứ quảng cáo thuốc
lia chia, lập đi lập lại hoài mà không làm trò. Kiên nhẫn
lắm mới coi được một trò thì vừa coi vừa
hồi hộp sợ về bị đòn... Chú biết không,
có bữa chờ hoài không được coi biểu diễn,
tôi liều mạng ngồi đợi tới cùng, tối
quá mà họ vẫn không diễn cái trò đã quảng cáo, báo
hại về bị ông già chộp cổ...
- Vậy đó, mấy
chú nhỏ thì muốn coi múa võ, coi cho đã mắt trò nầy
trò kia. Người bán Sơn Đông thì muốn bán thuốc,
võ chỉ là mánh khóe vừa để tụ họp thiên hạ
lại vừa xí gạt thiên hạ rằng họ có nghề
là nhờ uống thuốc Sơn Đông.
Tôi vẫn không kềm
chế được ý muốn kể cho chú nghe kỷ niệm
của mình:
- Hồi đó tôi
được coi cả chục đoàn Sơn Đông biểu
diễn lận. Không kể đoàn của ông Lê Văn Quý
chuyên môn diễn và hát thuật. Có một đoàn người
Tàu rất đông, trò đặc biệt của họ là
trò "Tam anh đại chiến Lữ Bố" ba
người cầm khí giới của Lưu, Quan,
Trương đánh với một người cầm cây "Phương
thiên họa kích" đóng vai Lữ Bố. Coi cũng
mát con mắt lắm. Có một đoàn của một cặp
vợ chồng Việt Nam, anh chồng biểu diễn
như chú hồi đó vậy, cũng lấy cây kích cho
người ta đẩy vô giữa yết hầu. Tôi khoái
ông ta nhứt vì ông ta là Việt Nam. Tôi còn nhớ ông ta có một
cái thẹo dài ở ngang lưng. Cái thẹo đó cắt
con cọp xâm trên lưng ông ta ra làm hai khúc. Coi thiệt là
đẹp, thiệt là lạ. Nó như một tấm hình vẽ
bị xé ra làm hai. Mà là hình vẽ trên một cái lưng bề
ngang bự như một tấm thớt, bắp thịt cuồn
cuộn, lấm tấm mồ hôi, lóng lánh như sao đêm.
Chú Tư cười
rạng rỡ nhưng bí hiểm. Chú ngó xuống ngực
mình, cái áo sơ mi dài tay lòng thòng không che giấu được
mình mẩy ốm nhom ốm nhách của chú. Chú tính nói gì,
nhưng rồi lại làm thinh, mân mê điếu thuốc bằng
mấy ngón tay xương xẩu, da thịt nứt nẻ,
đóng khói vàng.
- Tôi còn nhớ hồi
đó, đâu tôi chừng bảy tám tuổi có một cái
răng cửa bị xiết ăn lung lay quá cỡ. Ngồi
trong lớp tôi cứ lấy lưỡi đẩy đẩy
nó ra hoài. Hy vọng nó rớt ra. Mà đâu có được.
Đẩy mạnh thì đau, lưỡi thì thụt lại.
Nó hành hạ tôi cả tuần. Bữa đó đoàn Sơn
Đông của cặp vợ chồng này quảng cáo thuốc
sâu răng gia truyền và có nhổ răng thí. Tôi lấy hết
can đảm bước ra cho ông ta nhổ răng. Chú biết
sao không?
Chú Tư đưa
tay chận tôi lại:
- Thầy Hai để
tôi nói coi trúng không?
Tôi ngạc nhiên
nhưng cũng ngưng nói, đưa ly cà phê lên nhấm
nháp từng hớp thiệt nhỏ rồi mở gói ny-lông
trong túi vấn một điếu thuốc bằng giấy
báo cũ:
Chú Tư ngó châm bẩm
vô mặt tôi, cười hề hề:
- Chắc anh ta một
tay bợ cằm thầy Hai, một tay hờm sẵn, anh
ta hỏi đâu đâu, chờ khi thầy Hai mở miệng
trả lời là anh ta đẩy bật cái răng ra chớ
gì? Có khó gì đâu? Đâu cần học tới bằng cấp
bác sĩ mới biết nhổ mấy cái răng cơm
sườn đó.
Tôi cười theo,
vui thiệt là vui.
- Vậy mà lúc đó tôi
đâu có ngờ. Bây giờ chuyện gạt con nít
đó quá tầm thường. Tôi cũng thường hay nhổ
ba cái răng sữa của các con tôi kiểu đó. Nhưng
mà phải phục ông ta sáng trí, biết cách làm cho mình chú ý tới
một cái gì khác để quên thực tại và ông ta đã
thành công.
Chú Tư ngắt lời
tôi:
- Như mình bây giờ
"thiên hạ" biểu
chống nầy chống kia, chống đông chống tây,
chống tam hoàng xích đế, để mình quên dòm lại
mình chỉ còn cái quần xà lỏn rách, cơm cũng không
có mà ăn.
Tôi trở về
đề tài kỷ niệm của mình, không muốn chết
chùm vì lời phát ngôn của người đối diện:
- Chú Tư biết không,
lúc ông ta bẻ cái răng, đau thiếu điều xón
đái trong quần, tôi nhón người lên, đưa hai tay
gỡ tay của ông ta, buông cái cặp bàng xuống đất.
Cặp đã rách ra làm hai sẵn nên sách vở văng tùm lum
tà la, bình mực bỏ trong cái lon sữa bò tôi thường
xách tòn ten cũng lăn long lóc, đổ mực ướt
dài trên mấy cuốn tập. Bữa sau vô lớp bị
ông thầy già quất roi mây một trận muốn quíu
đít luôn.
Chú Tư cười
ha hả:
- Vậy là vô tình tôi hại
thầy Hai rồi.
Rồi không để
tôi ngạc nhiên lõ mắt dò hỏi lâu hơn. Chú trật áo
đưa hình con cọp xé hai trên cái lưng da nhăn nhó.
Con cọp không còn hùng dũng nữa, trái lại như mếu
máo xệu xạo. Tuy vậy nó vẫn có một cái vẻ
gì đó khiến tôi nhận liền ra được
như một người quen sau mấy chục năm xa
cách.
Chú nói chậm rãi, mắt
đăm đăm theo dõi cái bóng nắng đang từ từ
liếm một cái lỗ bự trên nền xi măng trước
cửa:
- Tôi nhổ răng
cho quá nhiều người, họ nhớ tôi, chớ tôi
không nhớ họ. Như thầy Hai dạy học trò vậy
mà. Học trò nhớ thầy chớ thầy làm sao nhớ hết
học trò.
Tôi nói để lấp
liếm sự mắc cỡ về cử chỉ của
mình hồi nhỏ:
- Vậy là tôi mang
ơn chú rồi. Mang ơn mấy chục năm nay mà hổng
biết. Nhờ chú tôi được bài học "dương đông kích tây".
Tôi nói thêm, bắt chước giọng của mấy ông
già bảy mươi gần kề miệng lỗ:
- Nhiều khi ngồi
không buồn buồn nhớ lại chuyện Sài Gòn mấy
chục năm về trước thấy cũng hay hay ngồ
ngộ. Tiếng xe thổ mộ lọc cọc đánh nhạc
buổi sáng, âm thanh đều đều trong trẻo có cái
gì đó mát mát vui vui khó tả vô cùng. Buổi chiều đi
học về nghe tiếng phèng la của đoàn Sơn
Đông mãi võ thì không còn gì hấp dẫn hơn, cây roi mây chờ
sẵn ở nhà cũng tấp vô. Mấy bữa nghỉ học,
trời xế xế, vừa ngủ dậy nghe tiếng
kèn tây của đoàn nhạc sĩ mù thổi mấy bản
ái quốc thì nức lòng nức dạ không sao nói nổi,
chém chết cũng đi theo họ, lòng vòng có khi xa thiệt
xa nhà mà không hay. Mấy thứ đó là những kỷ niệm
khó quên của thời thơ ấu, nhớ lại mà tiếc
hùi hụi.
Chú Tư gật gù
nhưng vẫn không bỏ được tánh trời cho:
Bây giờ những thứ
đó cũng có nhưng dưới hình thức khác hơn một
chút: Nè nghe! Tiếng nhạc xe ngựa lọc cọc buổi
sáng được thay bằng mấy cái loa phóng thanh lè nhè "tiến
nhanh, tiến mạnh"... Tiếng phèng la của đoàn
Sơn Đông mãi võ với những khẩu hiệu trời
ơi đất hỡi có khác gì đâu nà, cũng mời gọi
quyến rũ, cùng gạt người ta bằng nguyên tắc
đưa ra một thực tế để tuyên truyền
cho một thực tế khác, xa lắc xa lơ không ăn
nhậu gì với nhau hết, suy nghĩ nát óc cũng không thấy
chúng liên quan ở chỗ nào! Tôi nói ít chắc thầy Hai hiểu
nhiều, còn mấy bản kèn ái quốc của đoàn nhạc
sĩ mù hả, được thế bằng diễn
văn tràng giang đại hải của mấy cha nội
chớp bu mù tịt về cách xây dựng đất nước
nhưng luôn luôn xô đẩy người ta đi theo con
đường của mình.
Tôi rùng mình ê càng
trước lời phát ngôn oang oang của chú Tư. Cha nội
nầy già mà còn hăng máu ngà quá, may mà quán quen, chung quanh không
có mặt lạ. Đời bây giờ đâu cần nói hết
ý…
Tôi dòm quanh quất một
lần nữa chắc bụng không có tai vách mạch rừng
rồi mới gật đầu biểu tình vừa đốt
cho pháo nổ thêm:
- Chú nói không trật
vô đâu được. Có sự thay đổi nhưng mà
những thay thế đó chắc không được mấy
người ưa.
Chú Tư phản
đối quyết liệt, cùn quằng như đuôi thằn
lằn bị đứt:
- Sao lại không? Ít nhứt
là tụi theo đóm ăn tàn, là bọn đâm cha giết
chú lấy chị dâu. Đời thiếu giống gì bọn
theo gió trở cờ. Nhưng mà những kỷ niệm thời
thơ ấu của thầy Hai nó đẹp, nó điểm
tô cho cuộc đời của thầy Hai. Còn kỷ niệm
của tuổi trẻ bây giờ hả? Ác mộng! Dòm mà tội
nghiệp!
Hai đứa con gái
nhỏ đâu độ bảy, tám tuổi, quần ống
thấp ống cao, ý chừng là em của đứa nào
đó trong bọn trước, ở đâu chạy tới
đứng ngó thèm thuồng, mấy đứa con trai giành
nhau húp một chút nước lèo cặn xót lại của một
thực khách vừa đứng dậy.
Chú Tư bắt gặp
tôi theo dõi cảnh tượng từ đầu đến
cuối, hất hàm như hỏi đố về người
trách nhiệm cho hoạt cảnh đau lòng nầy.
Tôi ngó đi chỗ
khác. Mấy câu nói thẳng như ruột ngựa của
chú: "Tiếng phèng la của
đoàn Sơn Đông mãi võ với những khẩu hiệu
trời ơi đất hỡi có khác gì đâu nà". "Kỷ
niệm của tuổi trẻ bây giờ hả? Ác mộng"
xoáy mòn tim tôi, quậy lên các chất chua trong bao tử.
Tôi nghe mình chóng mặt muốn mửa vì một nỗi buồn
mênh mông bao vây...
Chúng tôi ngồi
đó, làm thinh ngó nhau một lúc thiệt lâu, hàng thế kỷ
có lẽ, ai chìm trong sóng ý tưởng nấy, nhưng tôi biết
cả hai đương có một sự tương thông kỳ
lạ.
Tự nhiên tôi thấy
thương chú Tư quá, thương một người
đã già mà vẫn còn dằn vặt vì chuyện "làm bậy" để sinh tồn
của mỉnh từ cái thuở xa xưa nào đâu,
thương một người biết đau về nỗi
bất hạnh của thiên hạ, của tuổi trẻ bị
bỏ quên….