Kỷ niệm với nhà văn tiên phong Hồ Biểu Chánh (1884-1958)

NKLT: Nam Kỳ Lục Tỉnh xin mạn phép tác giả đổi tựa đề thành Kỷ niệm với nhà văn tiên phong Hồ Biểu Chánh (1884-1958).

____

I –LỜI MỞ ĐẦU

Hồ Biểu Chảnhlà nhà văn lão thành Miền Nam đã mở đầu phong trào viết Tiểu thuyểttheo lối Tây phương và đã để lại một sự nghiệp văn chương “đồ sộ”vào thời bấy giờ,  gồm hơn 100 tácphẩm đủ loại: tiểu thuyết, tùy bút, hồi ký, dịch thuật, thơ,tuồng, phóng tác...

Riêng cá nhân tôi,do một cơ may đặc biệt, tôi được tiếp cận nhà văn đáng tuổi Ông tôi doviệc tôi là học trò “giỏi”, học trò “cưng” của Trưởng nam của Ông làGiáo sư  HỒ VĂN KỲ TRÂN. Ngược dòng thời gian, ngay dưới thờ Phápthuộc, do chính sách “ngu dân” việc học vấn trong nước bị hạn chếtối đa, GIÁO SƯ TRÂN được phụ thân cho sang Pháp du học thành tài, hồihương được bổ nhiệm làm Giáo sư tại các Trường Trung học PETRUS TRƯƠNGVĨNH KÝ và Trường QUỐC GIA SƯ PHẠM SÀI GÒN, rồi được thăng chứcHiệu trưởng Trường THOẠI NGỌC HẦU (LONG XUYÊN), sau đó  tham gia chánh trị, đắc cử Dân biểu Quốc hội ĐỆ NHẤT CỘNGHÒA, được đề cử đi Công cán nước ngoài trước ngày đảo chánh1/11/1963. Rồi đến lược Trưởng nam của Giáo sư là Tướng Hải quân, PhóĐề đốc HỒ VĂN KỲ THOẠI, Anh hùng trong Trận Hải chiến bảo vệ Quầnđảo HOÀNG SA  ngày  19/1/ 1974, tác giả Tập Hồi ký nhan đề“ CAN TRƯỜNG TRONG CHIẾN BẠI” làmơột tài liệu lịch sử quí giá, làm vẻ vang vọng tộc.

Tôi, Giáo sư PETRUSKÝ và SƯ PHẠM, PHỤ TÁ KHỐI NGHIÊN CỨU VÀ PHAT TRIỂN GIÁO DỤC/ BỘGIÁO DUC, tác giả bài viết, may mắn được học với Giáo sư HỒ VĂN KỲTRÂN ở cả hai Trường PETRUS KÝ  vàQUỐC GIA SƯ PHẠM và được bổ nhiệm về dạy lại tại cả hai Trường lớnnầy. Thầy mừng cho tôi nối được nghiệp Thầy và khi làm Hiệu TrưởngTrường THOẠI NGỌC HẦU- LONG XUYÊN, Thầy nắm tay tôi rủ xuống LONG XUYÊNphụ với Thầy và để làm vui lòng Thầy, tôi cũng đã dẫn một Pháiđoàn Giáo sư và Học sinh PETRUS KÝ xuống Cắm Trại một tuần lễ đểtham gia Đại Hội THỂ THAO VĂN NGHỆ Học Sinh Tỉnh Nhà. Sau đó thì Thầyđắc cử Dân Biểu Quốc Hội và chuyển sang hoạt động chánh trị nênThầy trò ít có dịp gặp nhau.

Còn đối với TƯỚNG THOẠI và em là HỒVĂN KỲ TƯỜNG (đã mất) thì tôi xem như anh em. Cậu của Anh THOẠI là GSNGUYỄN THÀNH TRÍ, Em Cô HỒ LIỄU (Cô TRÂN) là bạn tôi ở SƯ PHẠM, quê ởBẾN SÚC (BÌNH DƯƠNG), thỉnh thoảng dắt tôi về quê thăm Thầy Cô TRÂN vàkhi Cô HỒ LIỄU đau nằm Bệnh viện GARDEN GROVE, CALIFORNIA, chúng tôi cóvào thăm. Phu nhân Anh THOẠI là bạn cùng Lớp SƯ PHẠM với Người Chị conBác tôi. Khi tôi tốt nghiệp Khóa 14 SQTBTĐ, Chị định nhờ Anh rút tôivề Hải Quân, nhưng rất tiếc năm đó bên HẢI QUÂN không có nhu cầu và tôicũng đã may mắn được thuyên chuyển về bổ xung  quân số Phòng Tuyển Binh thuộc Bộ ChỉHuy iii Tiếp Vận, sau trực thuộc Nha ĐỘNG VIÊN/ BỘ QUỐC PHÒNG.

Còn đối với Cụ HỒ BIỂU CHÁNH mà tôithân kính như Ông tôi, thì khi hưu tri Cụ lui về ở ẩn tại PHÚ NHUẬN,rảnh rang lo viết sách. Chúng tôi thường vào thăm Cụ và khi  biết chúng tôi chọn ngành giáo dục, Cụrất vui, cho đó là nghề có phước đức và khuyên chúng tôi nên noi theonghiệp văn chương, chữ nghĩa của Cụ. Những lúc vui miệng, Cụ gọichúng tôi là “các THẦY” mặc dù lúc bấy giờ chúng tôi chưa tốtnghiệp SƯ PHẠM.  Chúng tôi vẫn ghinhớ và noi theo lời Cụ dạy.

Rt tiếc là, sau nhiều biến cố chính trị dồn dậpcủa đất nước, tuy bản thân Cụ không bị hề hấn, nhưng những năm lao tâmlao trí cũng đã làm Cụ tổn thọ phần nào và năm 1958 Cụ qui tiên, tạiPHÚ NHUẬN, thọ 74 tuổi.  

IỊ  TIỂU SỬ CỤHỒ BIỂU CHÁNH (1884-1958)

Cụ HỒ BIỂUCHÁNH tên thật là HỒ VĂN TRUNG, tự BIỂU CHÁNH, hiệu THỨ TIÊN, sanh năm1884 (trong khai sanh ghi ngày 1-10-1885), tại làng Bình Thành, Tỉnh GÒCÔNG (nay thuộc Huyện GÒ CÔNG ĐÔNG, Tỉnh TIỀN GIANG).

Xuất thân trongmột gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ NHO, sau đó chuyển qua họcQUỐC NGỮ rồi vào các Trường Trung học MỸ THO và SÀI GÒN. Năm 1905,sau khi đậu bằng THÀNH CHUNG (Diplôme d’Etudes Primaires Supérieures IndochinoisesDEPSI, tương đương với Trung Học Đệ Nhất Cấp), Cụ thi đậu vào ngạchKý lục (Thư ký: Sécrétaire) của SOÁI PHỦ NAM KỲ. được bổ nhiệm làmKý lục (sécrétaire), rồi Thông ngôn (interprète), thăng dần đến ngạchĐốc Phủ sứ (Chef d’arrondissement: Quận Trưởng), từng giữ chức vụ ChủQuận (Quận Trưởng) ở nhiều nơi. Cụcó tiếng là thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ, bênh vực nhữngkẻ cô thế, bị hàm oan, bị hà hiếp, nên được dân tình ở những nơi Cụtrấn nhậm mến thương và tạo phước đức cho con cháu.

Tháng 8 năm 1941, sau khi về hưu, Cụ  được Pháp mời làm Cố vấn, với danhhiệu Nghị viên Hội Đồng Liên BangĐông Dương và Phó Đốc Lý Thànhphố SÀI GÒN, đồng thời làm Giám đốc những Tờ báo Tuyên truyềncho Chủ nghĩa Pháp-Việt.

Năm 1946, khi táichiếm Nam Bộ, Pháp lập NAM KỲ QUỐC.Ông được mời làm Cố vấn cho Chánh phủ NGUYỄN VĂN THINH, nhưng chỉ có mấy tháng khi Chánh phủNGUYỄN VĂN THINH sụp đổ, Ông lui về ở ẩn và giành trọn những nămtháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Một điểm đáng nói là saunhững biến cố sôi nổi đẩm máu của thời cuộc, nhiều chính khách,nhà văn... bị sát hại hay điêu đứng, như PHẠM QUỲNH, DƯƠNG QUẢNG HÀM,KHÁI HƯNG TRẦN KHÁNH GIƯ, NGUYỄN TƯỜNG TAM... Cụ tránh được nạn tai,có thể là do ân đức của tổ phụ hoặc do phước đức do chính Cụ tạora trong những năm phục vụ Hành chánh, đã che chở cho Cụ và gia đìnhCon Cháu cũng được hưởng phước đức đó.

Cụ mất ngày4-9-1958 tại PHÚ NHUẬN- GIA ĐỊNH, thọ 74 tuổi. Và như trên đã nói,Trưởng nam Cụ là Giáo sư HỒ VĂN KỲ TRÂN, tốt nghiệp bên Pháp, làGiáo sư, Hiệu trưởng Trường Trung học, Dân biểu QUỐC HỘI, Cháu đíchtôn Ông là Phó Đề đốc HỒ VĂN KỲ THOẠI nổi tiểng ANH HÙNG trong trậnHải chiến HOÀNG SA, tất cả cũng là nhờ ân đức của Tổ Phụ.

“Ai ơi ăn ở hiền lành

Phúc mình mìnhhưởng, để dành Cháu Con!”

III- SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG.- 

Trong suốt gần 40năm sáng tác

- với phong cách hành văn giản dị, tiêu biểu cho cácNhà văn NAM BỘ thích hợp với tâm lý đọc giả Miền Nam, về sau cóBÌNH NGUYÊN LỘC TÔ VĂN TUẤN, NGUYỄN VĂN SÂM, LƯƠNG VĂN LỰU, THÁI THỤYVI...

- sáng tác bằng chữ QUỐC NGỮ, có phầnnào mộc mạc, chân chất,phản ảnh tâm lý chân chất, mộc mạc của ngườiMiền Nam, khác với lối hành văn bóng bảy, trau chuốt của các nhà vănmiền Bắc

- mở màn cho loại Tiểu thuyết hiện đại,sáng tác theo lối tiểu thuyết Phương Tây

- đã để lại một sự nghiệp văn chương tolớn so với thời bấy giờ với hơn 100 tác phẩm đủ loại gòm có dịchthuật, thơ, tùy bút, phê bình, hồi ký, tuồng hát, đoản thiên, truyệnngắn, biên khảo, phóng tác và trên 60 tiểu thuyết.

Cụ HỒ BIỂUCHÁNH quả thật xứng đáng với danh hiệu NHÀ VĂN TIÊN PHONG NAM BỘ, mãi lưu danh hâu thế. Thi sĩ ĐÔNG HỒ đã viếng Tang lễ Cụ bằng câu đối ghép bằng các Tựasách của Cụ:

“Cay Đắng Mùi Đời, Con NhàNghèo, Con Nhà Giàu, tiểu thuyết viết sáu mươi ba thiên,Vì nghĩa Vì Tình, Ngọn Cỏ Gió Đùa, Tỉnh Mộng, Mấy Ai Làm Được Can Thường Nặng Gánh, ConKhóc Thầm, Con Cười Gượng, thanh cần trải bảy mươi bốn tuổi,Thiệt Giả, Giả Thiệt, Vườn văn xưa ghé mắt, Đoạn Tình còn Ở TheoThời.”

Đúng là “ Cụ đãđể lại cho đời 63 quyển tiểu thuyết và thọ 74 tuổi)

Tác phẩm của Cụgồm có:

1/ DỊCH THUẬt, Chú giải và Biên soạn cổ tích

- Cổ văn Trungquốc: Kim Cổ Kỳ Quan, Tình Sử (Saigon 1920),

- Tiếng Pháp:Lửa Ngún Thình Lình (Saigon 1922)

- Cổ văn:Chú giải các tác phẩm cổ điển Việt Nam : Văn tế Chiêu hồn của NGUYỄNDU,  Tiếc thay Duyên Tấn phận Tần

2/ THƠ:

- U Tình Lục (Saigon1910)

- Vậy Mới Phải (LongXuyên 1913)

- BIỂU CHÁNH ThiVăn (Tập I.2, 3. Bản thảo) 

3/ TÙY BÚT- PHÊ BÌNH:

- Chưởng Hậu QuânVÕ TÁNH (Saigon 1926)

- Chánh Trị GiáoDục (Gò Công 1948)

- Tùy Bút ThờIĐàm (Gò Cêng 1948)

4/ HỒI KÝ:

- Ký ức Cuộc ĐiBẮC KỲ (1941)

- Mấy Ngày ỞBẾN SÚC (Bến Súc 1944)

- Đời Của Tôi: -về Quan Trường, -về Văn Nghệ, -về Cách Mạng

- Một Thiên Ký Ức: NAM KỲ CỘNG HÒA TỰ TRỊ (1948)

- Tâm Hồn Tôi (GòCông 1949)

- Nhàn Trung TạpKỷ (Tập 1,2,3 Gò Công 1949)

5/ TUỒNG HÁT:

-HÀI KỊCH:

- Tình Anh Em (Saigon1922).

- Toại Chí BìnhSanh (Saigon 1922)

-  Đại Nghĩa Diệt Thân (Bến Súc 1945)

- HÁT BỘI:

- Thanh Lệ KỳDuyên (Saigon 1941)

- Công Chúa KénChồng (Bình Xuân 1945)

- Xả Thân ThủNghĩa (Bình Xuân 1945)

- TRƯƠNG CÔNG ĐỊNHQui Thần (Bình Xuân 1945)

- CẢI LƯƠNG:

- Hai Khối Tình(Saigon 1943)

- Nguyệt Nga CốngHồ (Saigòn 1943)

- Vì Nước Vì Dân(Gò Công 1947)

6/ ĐOẢN THIÊN:

- Chị Hai Tôi (VĩnhHội 1944)

- Thầy ChùaTrúng Số (Vĩnh Hội 1944)

- Ngập Ngừng (VĩnhHội)

- Một Đóa HoaRừng (Vĩnh Hội 1944)

- Hai Thà CướiVợ (Vĩnh Hội)

- Hai Chồng (VĩnhHội)

- Hai Vợ (Saigon1955)

- Lòng Dạ ĐànBà (Saigon 1955)

7/ TRUYỆN NGẮN:

- Chuyện TràoPhúng  Tập 1,2 (Saigon 1935)

- Chuyện Lạ TrênRừng (Bến Súc 1945)

- Truyền Kỳ Lục (GòCông 1948)

8/ BIÊN KHẢO:

- PÉTAIN, Cáchngôn Á Đông Triết Lý Hiệp Giải (Saigon 1942)

- GIA LONG KhaiQuốc Công Thần (Saigon 1944)

- GIA ĐỊNH TổngTrấn (Saicon)

- Chấn Hưng VănHóa VIỆT NAM (Saigon 1944)

- TRUNG HOA TiểuThuyết Lược Khảo (Bình Xuân 1945)

- Đông Châu Liệt QuốcChí Bình Nghị (Bến Súc 1945)

- Tu Dưỡng ChỉNam (Bến Súc 1945)

- Pháp Quốc TiểuTuyết Lược Khảo (Bình Xuân 1945)

- Một Lẳn ChánhKhí: Văn Thiên Tường (Bình Xuân 1942 lần 2)  

- Nhân Quần TấnHóa Sử Lược (Gò Công 1947)

- Âu Mỹ CáchMạng Sử (Gò Công 1948Đ

- Việt Ngữ BổnNguyên (Gò Công 1948)

- Thành ngữ TạpLục (Gò Công 1948)

- Phật Tử Tu Trì(Gò Công)

- Nho Học Danh Thơ(Gò Công)

- Thiền Môn ChưPhật (Gò Công 1949)

- Địa Dư ĐạiCương (Gò Công)

- Hoàng Cầu ThôngChí (Gò Công)

- Phật Giáo CảmHóa Trung Hoa (1950)

- Phật Giáo ViệtNam (1950)

- Trung Hoa Caosĩ, Ẩn sĩ, Xứ sĩ (1951)

- Nho Giáo TinhThần (1951)

9/ PHÓNG TÁC:

- Ngọn Cỏ GióĐùa (Les Misérables – VICTOR HUGO)

- Chúa Tàu Kim Qui(Le Comte De Monte Cristo – Alexandre Dumas)

- Cay Đắng MùiĐời (Sans Famille – Hector Malot)

10/ TIỂU THUYẾT: (Theo thứ tự ABC)

- Ai Làm Được (CàMau 1912)-Ái Tình Miếu (Vĩnh Hội 1941)

- Bỏ Chồng (VĩnhHội 1938)-Bỏ Vợ (Vĩnh Hội 1938)

- Bức Thư Hối Hận(Gò công 1953)   -Cha Con Nghĩa Nặng(Càn Long 1929)

- Chị Đào, ChịLý (Phú Nhuận 1957)  -Chút Phận LinhĐinh (Càn Long  1928)

- Con Nhà Nghèo(Càn Long 1930)-Con Nhà Giàu (Càn Long 1931)

- Cư Kinh (VĩnhHội 1941)-Cười Gượng (Saigon 1935)

- Đại Nghĩa DiệtThân(Saigon 1955)  -Dây Oan (Saigon 1935)

- Đỗ Nương NươngBáo Oán (SG 54)-Đóa Hoa Tàn (Vĩnh Hội 1946)

- Đoạn Tình (VĩnhHội 1940) -Đón Gió Mới (Phú Nhuận 1957)

- Hai Chồng (Saigon1955)-Hai Khối Tình (Vĩnh Hội 1939)

- Hai Vợ (Saigon1955)-Hạnh Phúc Lối Nào (Phú Nhuận 1957)

- Kẻ Làm NgườiChịu (Càn Long 1928)-Khóc Thầm (Càn Long 1929)

- Lá Rụng Hoa Rơi(Saigon 1955)-Lạc Đường (Vĩnh Hội 1937)

- Lẫy Lừng HàoKhí (Phú Nhuận 1958)-Lời Thề Trước Miễu (Vĩnh Hội 1938)

- Mẹ Ghẽ Con Ghẽ(Vĩnh Hội 1943)  -Một Chữ Tình(Saigon 1923)

- Một Đời TàiSắc (Saigon 1935) -Một Duyên Hai Nợ (Saigon 1956)

- Nam Cực Tinh Huy(Saigon 1924)   -Nặng Bầu Ân Oán (GòCông 1954)

- Nặng Gánh CanThường(CànLong 30)   -Người Thất Chí(Vĩnh Hội 1938)

- Nhơn Tình ẤmLạnh (Saigon 1925) -Những Điều Nghe Thấy (Saigon 1956)

- Nợ Đời (VĩnhHội 1936) -Nợ Tình (Phú Nhuận 1957)

- Nợ Oan Trái(Phú Nhuận 1957) -Ở Theo Thời (Saigon 1935)

- Ông Cả Bình Lạc(Saigon 1956) -Ông Cử (Saigon 1935)

- Sống Thác VớiTình (Phú Nhuận 1957)  -Tại Tôi(Vĩnh Hội 1938)

- Tân Phong Nữ Sĩ (VĩnhHội 1937)   -Tắt Lửa Lòng (PhúNhuận 1957)

- Thầy Thông Ngôn(Saigon 1926) -Thiệt Giả Giả Thiệt (Saogon 1935)

- Tiền Bạc BạcTiền (Saigon 1925)-Tìm Đường (Vĩnh Hội 1939)

- Tỉnh Mộng(Saigon 1923)-Tơ Hồng Vương Vấn (Saigon 1955)

- Trả Nợ Cho Cha(Saigon 1956)-Trọn Nghĩa Vẹn Tình(Gò Công 1953)

- Trong Đám CỏHoang (PhúNhuận 1957) -Từ Hôn (Vĩnh Hội 1937)

- Vì Nghĩa VìTình (Càn Long 1929) -Vợ Già Chồng Trẻ (Phú Nhuận 1957)

- Ý Và Tình(Vĩnh Hội 1938-1942)-Người Vợ Hiền

Tổng cộng có 62Tựa trong đó có “Y Và Tình” tái bản. Như thế là đủ con số 63 mà Cụ ĐÔNG HỒ đã viết trongcâu Đối Viếng TANG LỄ. Thậtlà một số lượng Tiểu Thuyết “to lớn”do một tác giả sáng tác so vớithời bấy giờ!

IV.-VÀI NHẬN XÉT VỀ TIỂU THUYẾT CỦA HỒ BIỂUCHÁNH:

1/ Sự tiến bộ vượt bực và bất ngờ củatiểu thuyết Miền Nam

Từ lâu, nhữngnhà nghiên cứu, phê bình tiểu thuyết MIỀN BẮC có vẻ xem thường bộmôn TIỂU THUYẾT MIỀN NAM và đinh ninhlà hai tác phẩm TỐ TÂM của HOÀNG NGỌC PHÁCH (1925) và QUẢ DƯA ĐỎcủa NGUYỄN TRỌNG THUẬT(1930) lànhững tiểu thuyết đầu tiên sáng tác theo lối Tây phương. Cho đến khi BáoPHỤ NỮ TÂN VĂN xuất  bản ở SAIGON lưu hành ra Bắc thì mới vỡlẽ là ngay những năm đầu tiên của thế kỷ đã có tác phẩm “HOÀNG TỐ ANH BỊ HÀM OAN” của TRẦN CHÁNH CHIẾU(1910) và “AI LÀM ĐƯỢC” của HỒ BIỂU CHÁNH (1912) là hai nhà văn tiên phong mở đầucho nghệ thuật viết tiểu thuyết theo lối Tây phương. Tuy nhiên phải côngnhận không phải hai nhà văn nầy có biệt tài khai sáng,  đi trước thời đại, mà chỉ viết theohứng thú, do nhu cầu của độc giả, đầu tiên làdịch thuật và phỏng dịch theo Tiểu thuyết Tàu vàTây, sau mới dần dần sáng tác theo khả năng và đường lối của mình,và Cụ HỒ BIỂU CHÁNH đã làm nên sự nghiệp! Nhưngười Tây phương nói:” Un coup d’essai est un coup de maitre”

2/ Về Nội dung:

-Thuật chuyệnchân chất, kiểu thấy sao nói vậy. Thí dụ giới thiệu nhân vật thì nhưkê khai lý lịch: Thằng nhỏ nầy tên nó là Lý Chánh Hội, cha nó là Lý ChánhTâm, mẹ nó là Thái Cẩm Vân...(Vì Nghĩa Vì Tình)

-Cách nối tiếpcâu chuyện cũng chân chất như kể chuyện đời xưa: chuyện thằng Tý chỉcó bấy nhiêu đó thôi, Bây giờ lại đến chuyện con Quyên...(Cha Con NghĩaNặng)

-Cả một bứctranh xã hội Miền Nam được mô tả trong tác phẩm của ÔNG: đất đai, nhàcửa, nhân vật, quần áo, lời ăn tiếng nói tùy theo giai cấp, đặc biệtlà khi Ông trấn nhậm nơi nào Cà Mau, Long Xuyên, Sai gòn,...thì mô tả địa phương đó. Có thể làm tài liệuquý giá cho các nhà nghiên cứu, khảo sát xã hội.   

-Chuyện kể luônluôn có đạo đức, có hậu:” Ởđời hể làm lành thì gặp lành, hể làm ác thì gặp ác”,”hể thấy aibị nạn thì phải cứu”: Lê Thủ Nghĩa, Thu Thủy, Trần Tấn Thân, ÔngĐội,... (Chúa Tàu Kim Quy), v.v...

3/ Về hình thức:

 Lời văn giản dị, phổ thông, quê mùa,suông đuột như lời nói, rất “ăn khách” với giới bình dân Nam bộ: ríuríu, buồnhiu, bãi buôi, bương bả, sơ sịa, lạ hoắc, sớ rớ, dễ ẹt, vắng teo,buồn so, buồn tênh, khóc xụt xùi, tươi rói,chuông khua lung kung, mủm mỉm, đứng tần ngần, bánhxe lét két, khóc rống lên, mua đồ, bán đồ, dòm coi, coi bộ giận lunglắm, nó rầy tôi, đi thưa làng, suy tính lung lắm, nằm riết, ngó chođã mắt...

V.-KỶ NIỆM NHÀ VĂN LÃO THÀNH HỒ BIỂU CHÁNH:

Sau đây là Vở Thoạikịch do Nhà văn DƯƠNG TỬ phóng tác  KỶ NIỆM NHÀ VĂN LÃO THÀNH HỒ BIỂUCHÁNH đểđền ơn tri ngộ.  

Vở KỊCH NÓI 5 MÀN NHAN ĐỀ “VÌ NGHĨA VÌ TÌNH”PHỎNG THEO TIỂU THUYẾT“VÌ NGHĨA VÌ TÌNH” CỦA HỒ BIỂU CHÁNHdo Nhóm PHỤ NỮ TÂN VĂN ấn hành năm 1929.

NỘI DUNG

 1/ Thầy thông XUÂN là một công chức thờiPháp thuộc, ăn chơi, đàng điếm, xua đuổi vợ là LÝ TÔ NGAra khỏi nhà để rước vợ hai về. Trong lúc bơ vơ, đêmkhuya, cô đơn, tuyệt vọng, may mắn gặp được LỮ TRỌNGQUÌ là người tốt hỏi thăm sự tình, gíúp đở, đemgởi nhờ nhà em là Cô NĂM ĐÀO, sau đó  hai người yêu nhau.

 2/ LÝTỐ NGA tìm đến nhà Em là LÝ CHÁNHTÂM để giải bày tâm sự, rồi trong một lúc buồn tủi, mặc cảm tộilỗi, muốn tự tử. May nhờ em dâu, vợ LÝ CHÁNH TÂM, là THÁI CẨM VÂNkịp thời ngăn cản, khuyên lơn, giải thích, gíúpcho TRỌNG QUÌ và TỐ NGA liên lạc với nhau bằngcách cho mượn tên và địa chỉ của mình.

3/ Chính vì thếmà khi bắt gặp bì thư do TRỌNG QUỲ gởi cho vợ mình, CHÁNH TÂM nghingờ vợ tư tình với TRỌNG QUỲ và đứa con mấy tháng tuổi LÝ CHÁNHHỘI của hai vợ chầng là con của TRỌNG QUỲ, nên trong cơn nónggiận, thiếu suy nghĩ, trong đêm khuya đã cho nó chomột TÊN ĂN TRỘM. Đến chừng nghe TRỌNG QUÌ, TỐ NGA, CẨM VÂN xúm lại giảithích, thì hối hận, phát điên vì thương con vô tội do lầm lẫn củamình.

4/ CÔ NĂM ĐÀO, emTRỌNG QUÌ, là một góa phụ trẻ đẹp, hai con, tính tình nhân hậu, ănnói dịu dàng, nghe chuyện, bèn tình nguyện giúp đở, an ủi,  khuyên giải, dần dần, cảm hóa và đưaCHÁNH TÂM trở về với lý trí. Tên ĂN TRỘM nghe chuyện bèn đem con trả lại cho CHÁNH TÂMvà CẨM VÂN

5/ Cả nhà đoàntụ, vui vẻ. Vì có cảm tình và tri ân sâu xa, hai vợ chồng CHÁNHTÂM  và CẨM VÂN khẩn khoản yêucầu CÔ NĂM ĐÀO về ở chung với vợ chồng mình,nhưng CÔ NĂM cương quyết từ chối vì CÔ biết:

“Chia cơm xẻ áo sự thường

  Chồng chung vợ chạ, ai nhường chi ai?”

CÔ muốn giữ danhtiết với người chồng quá cố của mình. Thật đáng khen thay! “VÌNGHĨA VÌ TÌNH”

KỊCH BẢN 5 MÀN

1/ Màn 1: cảnh nhà Thầy thông XUÂN, một cái bàn, hai cáighế, Cô Thông TÔ NGA đang ngồi khóc. Có tiếng ThầyThông XUÂN từ trong buồng (hậu trường) vọng ra (hoặcchính cá nhân bước ra) xua đuổi vợ với lời lẽ hằn học. TỐ NGAvừa đi ra vừa khóc.Phong cảnh thay đổi nhanh thành một cái băng ngồibên lề đường. TỐ NGA đi đến ngồi xuống, lại khóc than. Thời may TRỌNGQUÌ tình cờ đi đến, gặp gở, hỏi thăm duyên cớ, an ủi, đưa đến nhà CôNăm. Hai người đi ra

2/Màn 2 :Cảnh nhà CHÁNH TÂM: 2 cái ghế, 1 cái bànTỐ NGA đến nhà CHÁNH TÂM ngồi khóc rồi trong mộtlúc mặc cảm tội lỗi, lấy chay dầu nóng ra, định uống, CẨM VÂN, vợCHÁNH TÂM kịp thời ngăn cản, phân tích phải trái, rồi giúp TỐ NGA vàTRỌNG QUÌ gởi thư từ liên lạc với nhau bằng cách cho mượn tên và địachỉ của mình.

3/ Màn 3 : Cảnh nhà cũng đơn sơ: 1 bàn, 2 ghế

CHÁNH TÂM bắtgặp bì thư do TRỌNG QUÌ gởi cho vợ mình, ghen tương, nóng giận. TÊNTRỘM lén vào bị CHÁNH TÂM bắt được nhưng tha rồi cho con cho TÊN TRỘM. Sángra, TRỌNG QUÌ đến thăm, biết chuyện, cùng với CẨM VÂN và TỐ NGA giảithích, CHÁNH TÂM hối hận, thương con, hóa điên.

4/ Màn 4. Cũng cảnh nhà CHÁNH TÂM, TRỌNG QUÌ ra về, CÔ NĂMĐÀO đến, được CẨM VÂN và TỐ NGA giải thích, CÔ NĂM tình nguyện ở lại khuyên giảiCHÁNH TÂM. CẨM VÂN và TỐ NGA đi ra khỏi nhà (hoặc đi vào nhà trong)  Lúc đầu CHÁNH TÂM còn khó chịu, lalối, xua đuổi, nhưng CÔ NĂM xoa dịu, dụ dỗ CHÁNH TÂM, dần dần trở nênhiền lành, dễ sai bảo và tỉnh táo trở lại như bình thường

5/ Màn 5:  Cảnh nhà đônghơn

Cả nhà xúm lạichúc mừng. TÊN TRỘM đem con trả. Tiền hung hậu kiết.CẨM VÂN đề nghị chung sống. CÔ NĂM khéo léo từchối. Cả nhà vui vẻ. CÔ NĂM từ giả, chúc HẠNH PHÚC

 

 HẠMÀN