Hoàng Xuyên Anh, người cô phụ rơi dòng dư lệ trên những bài thơ sầu vạn cổ

      Tỉnh Trà Vinh (từ hồiĐệ nhất Cộng Hòa của Miền Nam Việt Namđược gọi là thị xã Vĩnh Bình) là mộtthành phố gần biển. Đất đai ở đókhông có sông rạch chằng chịt chảy qua nên đasố nóc gia phải đào giếng. Trà Vinh có nhiềungười Miên cư ngụ, có Ao Bà Om là nơi thắngcảnh, có dưa hấu ở Cầu Ngang ngon nhưdưa hấu Trảng hoặc dưa hấu Trà Bang. Dòngnước lợ tức là nước ngọt và nướcbiển trộn nhau chảy qua những địa danh nàotrong lãnh thổ của tỉnh đều có loại cá tháclác và cá chái ngon nổi tiếng. Cá chái thịt  béo lại có hai thỏi trứngto, được đem nấu ngót để chan lên bún vàrau xắt ghém là một món ngon hiếm quý. Nhưng món bún nướclèo mới là một món ăn độc đáo củangười Miên được biến cải đôi chútđể hợp khẩu vị người Việt.Đó là món  mắm sặt khochan lên bún, bắp chuối thái nhuyễn điểm lấtphất rau quế , rồi được đơmthịt phay, tôm luộc và rắc hành ngò, tiêu, ớt.Đến viếng Trà Vinh mà không ăn món bún nướclèo cũng như đi qua vùng Champagne nước Pháp mà quênthưởng thức món dồi heo và rượu sâm banh.

      Tôiviếng Trà Vinh vài lần. Lần chót vào năm 1961. Bâygiờ nghĩ về tỉnh ấy, tôi có thểmường tuợng những mái chùa Miên vàng rực vớinhững ngôi tháp nhọn trong ánh nắng tơ vàng, nhữngcây sa-kê cao khẳng khiu xõa chùm lá mềm mại trong đêmtrăng, những giếng nước ngọt trong mát,những trái dưa hấu Cầu Ngang khi đượcbổ ra phơi ruột đỏ lòng son lộng lẫy vàđiểm hột đen lánh trong lớp vỏ xanh màungọc thạch óng mượt. Tôi nào biết nơi đólà chốn sinh quán cô nữ sinh kiều diễm Ôn Quế Anhđa sầu đa cảm để rồi cô lên VĩnhLong, tỉnh lỵ sinh quán của tôi để làm côbạn hàng xóm của tôi, để tiếp tục việchọc tại trường Sư Phạm Vĩnh Long... Vàrồi năm tháng trôi qua, khi bước chân ra đời,cô phải nhận lãnh gánh hệ lụy đè nặng vaimềm. Con đường oan trái lại trải rộng ra,định mạng khốc liệt xô cô dấnbước vào. Tuy nhiên định mệnh oái oăm ấychẳng những không giết chết nổi Ôn Quế Anh,mà biến cô thành nhà thơ nữ Hoàng Xuyên Anh, một têntuổi quen thuộc trong chi hội Văn Bút Việt NamHải Ngoại - Bắc Cali.

         Tôi xin giới thiệu hai thitập ''Nỗi Lòng Cô Phụ'' và ''Khung Trời Kỷ Niệm'' của Hoàng Xuyên Anh trongniềm cảm thông giữa tác giả và bút giả.Đọc thơ chị, tôi nghĩ  rằng đó là loại thơđơn giản về ngôn ngữ lẫn tình ý. Chúngvẽ lên tấm chân dung một cuộc đời đánglẽ phải bình thường, nhưng tai ương vàthống khổ đã đưa nó vượt lên cáitầm thường, biến cái bình thường đóthành một cuộc sống tuyệt vời trong cõi thi ca.

      Cuộc đất Trà Vinhđã sản sinh thi sĩ Khổng Dương (1) vàothời tiền chiến, thi sĩ Truy Phong (2) vào thờichiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh,cùng hai nhà thơ nữ Hoàng Xuyên Anh và Vũ Thi An (3) nơihải ngoại. Và Trà Vinh được nhà thơ nữHoàng Xuyên Anh vẽ lên tấm chân dung của nó qua bài''Nhớ Tỉnh Trà Vinh'' trong thi tập  ''Khung Trời Kỷ Niệm''.

 

''Biển Ba Động nước xanh, cáttrắng,

Ao Bà Om thắng cảnh miền Tây,

Xin mời du khách về đây,

Xem qua thì rõ chốn nầy thần tiên''.

*

Làng tôi nghèo bên cạnh dòng sông Cửu,

Trà Vinh buồn trồng đủ lúa, ngô,khoai.

Miền Tây vựa lúa quanh con sông dài,

Dân quê chất phác miệt mài đồngáng.

*

Biển Ba Động hoàng hôn rơibảng lảng,

Tiếng ai hò man mác khúc tình ca.

Bóng dừa cao lẩn khuất trongsương nhòa,

Ôi! Đẹp quá! Chiều tà trên bãibiển.

*

Lượn sóng nhấp nhô đưathuyền cặp bến,

Bao dân chài gác mái trở về dinh.

Hàng tre xanh ấp ủ mộng yên bình,

Niềm hạnh phúc chan tình lên sứcsống.

*

Ao Bà Om khắc ghi đôi hình bóng,

''Khà-Me'' tình trai gái thuở xa xưa.

Yêu quê hương, nói sao hết cho vừa,

Ao sen trắng giữa bùn nhơ vẫnđẹp.

*

Trung học Vĩnh Bình nữ sinh khép nép,

Nón lá che nghiêng, áo trắng tung bay.

Trần Trung Tiên đào tạo bậc anhtài,

Tình giao hảo, tuổi ô mai đầymộng.

*

Ngả Ba Đuôi Cá thênh thang gió lộng,

Vườn dừa trĩu trái in bónghằng nga.

Gái trai làng vui hát khúc hoan ca,

Đêm thôn dã, tiếng ''dù kê'' rộn rã.

(các trang 82, 83)

   

    Bài thơ đầy những hìnhảnh thân thương, những nét tạo hình óngchuốt. Ngôn ngữ thơ bình đạm. Ý thơ trongvắt như nước giếng sâu và  đầy sinh lực như câydừa, khóm chuối, rẫy mía, vồng dưa sau cơnmưa mát mẻ.

      Chỉ có tình quê hươngmới nâng bước chân nhà thơ vào lối hoa mộngcủa quá khứ. Trong giây lát nào đó, chẳng hạn lúccất bút làm những bài tình tự hoài hương, tácgiả mới tạm quên cuộc sống ngang trái đauthương. Ý thơ chị tươi hẳn lên, sánglấp lánh như sóng biển Ba Động dướibầu trời ngát xanh màu lam ngọc.

 

Vườn quê hương trái ngọt,

Bóng mát rặng cây xanh,

Gió ru giấc mộng lành,

Đàn chim xa về tụ.

*

Cánh đồng vàng bát ngát,

Khúc khuỷu con đê dài,

Nhộn nhịp tiếng gái trai,

Mùa vụ vui gặt hái.

*

Dòng sông xanh uốn khúc,

Xuồng ba lá lênh đênh,

Đàn vịt bầu rỉa rúc,

Mặt trời bóng xế nghiêng.

*

Nhớ chiều xưa.. thu vàng,

Gặp anh nơi cố quận,

Nhìn nhau... mắt chứa chan,

Tình yêu vừa chợt hiện.

*

Xanh xanh màu mạ mới,

Tình ta giấc mộng đầy,

Thoáng hương đồng cỏ nội,

Ân tình ấm vòng tay.

*

Mây trời trôi lãng đãng,

Tiếng hạc buồn kêu sương.

Ngẩn ngơ đàn cò trắng,

Biển tình ngát yêu thương.

*

Gió lao xao lá cành,

Vũ trụ đẹp như tranh.

Tim em hồng dĩ vãng,

Ngàn hôn đọng môi xinh.

*

Tình Quê xao xuyến lạ,

Hoa bướm quyện thiết tha.

Men tình say giấc điệp,

Triền miên lịm hồn ta.

*

Hoàng hôn lau lách tím,

Quê hương cõi xa mờ.

Xao xác bìm bịp gọi,

Xứ người em bơ vơ.

(các trang 77, 78)

 

      Qua những đoạn thơtrích dẫn trên đây, chúng ta có thể tìm phong vịthơ quê

hươngđất nước của Anh Thơ, Bàng Bá Lân,Nguyễn Bính, Đoàn văn Cừ vào thời tiếnchiến. Chúng ta có thể bắt gặp hơi hướmâu yếm thiết tha trong thơ quê

hươngcủa Tường Linh (4)  vàcủa Kiên Giang Hà Huy Hà (5) vào hai thời Cộng Hòa củaMiền Nam Việt Nam, sau Hiệp Đinh Geneva. Chúng ta có thểgặp lại tình ý trong thơ Lê Ngọc Hồ, Dư ThịDiễm Buồn nơi hải ngoại.

      Nhưng cái thú vị củangười đọc là tìm gặp trong khung cảnhđồng quê trên đất nước thân thươngchúng ta có lồng mối tình của đôi lứa thiéu niên.Nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội (6)quê ở Hà Tiên có núi rực sắc thúy màu lam, có hồmộng trải gương trong, có Bách Phương Viên vàÚc Viên với hoa quỳnh, hoa cúc, có Tân Nguyệt Hiênđể bà đêm đêm ngắm vành trăng nonthượng tuần và ngôi sao hôm sáng long lanh. Thế mà bàkhông thể làm một bài thơ tình yêu mà chỉ làm vài bàithơ vịnh cảnh. Hoàng Xuyên Anh có một quêhương ven biển với khung cảnh đồngruộng bao la, nhưng không có kỳ hoa dị  thảo, không có thanh sơn thủytú, cũng không có nhiều địa linh nhân kiệt.Vậy mà chị có một mối tình để dệtthành những bài thơ kỷ niệm.

       Từ tình yêu lứa đôi,chị phóng chiếu nó lên tình yêu non nước, tức làphóng đại nó vào một tình cảm vĩ đạihơn, hùng tráng và thiêng liêng hơn. Xin đọc bài ''TrườngCa Nỗi Nhớ'' trong thi tập ''Khung Trời KỷNiệm'' :      

 

Đã từ lâu không còn gì để nói,

Giấu cuộc tình vào đêm tối mênhmông,

Đời u buồn như xuân, hạ, thu,đông,

Cố chôn lấp sau bức rèm phủ kín.

*

Hai bốn năm quốc hận đành câmnín,

Dấu vết tình áo não tím buồng tim,

Cảnh phù du anh trôi nổi kiếm tìm,

Em nức nở hồi sinh trong kiếpnhớ.

*

Quốc lộ một dặm dài còn bỡngỡ,

Nối tình thương giữa Hà NộiSài Gòn.

Dòng giống Tiên Rồng xanh biếc núi non,

Giang san gấm vóc cha ông gìn giữ.

*

Bắc, Trung, Nam lời ca dao tình tự,

Con đường làng sỏi đá uốnquanh thôn

Hàng dừa cao che mát chợ chiều hôm,

Em réo gọi tình hồng in đáy mắt.

(trang 88)

 

       Hai tập thơ ''Nỗi LòngCô Phụ'' và ''Khung Trời Kỷ Niệm'' là hai môitrường để tác giả ký thác nỗi đauthương của mình. Nhưng ai biết đâu ởmột con người thi sĩ thường có hai bacuộc sống, nếu bỏ qua cuộc sống thựctế thường nhật qua một bên. Ở Hoàng XuyênAnh, chị sống bằng ba cuộc đời buộcchặt vào thi ca: cuộc đời đẫm lệcủa người cô phụ, cuộc đời củakẻ hoài vọng quê hương và cuộc đờingưỡng vọng ánh vinh quang của Tổ Quốc vàDân Tộc. Nhưng cuộc sống tâm tình mới chiếmrộng lớn trong vòng sinh hoạt của chị. Tâmhồn và trái tim chị chia ra làm ba ngăn: ngăn tìnhcảm ủy mị tràn ngập nhân tính, ngăn bát ngát phongvị cố huơng cách xa đất nước nửabán cầu và ngăn rực sáng lửa thiêng của nòigiống.

 

 

*

*   *

 

      Bước vào cõi thi ca củaHoàng Xuyên Anh, khách thưởng ngoạn có thểtưởng tượng như buớc vào mảnh sântruớc hay mảnh sân sau của một ngôi thảo am trongvùng châu thổ nằm giữa dòng Tiền Giang và dòngHậu Giang. Mảnh vườn nào cũng nho nhỏ xinhxinh, có trồng những loại hoa phổ thông như hoachuối nước màu vàng tái lấm tấm chấmđỏ; hoa móng tay đỏ  viền vàng;hoa trúc đào và hoa đông hầu (tức là hoa mườigiờ) màu hồng đào; hoa sao nháy màu hoàng yến; hoa trangmàu vàng mỡ ngỗng; hoa sơn chi (tức là hoa dành dành)cùng hoa bạch ngọc (tức là hoa lài trâu), và hoa mộcđều có màu trắng tinh anh như tờ giấyngọc cốt; hoa huệ lan màu hồng ửng tía ngọt lịm; hoa cẩm nhung vốnlà loại cẩm chướng với màu trắng cósọc tím... Cạnh vuông đất trồng hoa là khutrồng rau với các loại sơ thái như cảidiếp, cải ngồng, cải ngọt, cải cúc cùng làcác loại rau thơm như húng, quế, kinh giới, raurăm, ngò gai, tía tô v. v...  Hoa vàcác loại sơ thái tuy rất phổ thông, nhưng trong khuvườn thưởng ngoạn của những kẻyêu quê mến đất, chúng luôn muôn tươi ngănngắt, mát dịu như tẩm sương mưa. Chúngrất gần gũi tâm tình và khẩu vị những dânmiệt vườn an phận thủ thường, quenthanh thưởng các bữa cơm rau đạm bạc.

      Nhưng mà các bạnđộc giả chớ quên: Khu vườn của HoàngXuyên Anh dù gợi trong cõi mường tượng chúng tanhững hoa đẹp cỏ thơm, dù vẽ trong óctưởng tượng chúng ta biết bao cây lành tráingọt, nhưng các bạn chớ quên tưởngtượng thêm trong đó còn có những cây gợi nênniềm bi ai thống khổ. Đó là những cây lệliễu buông nhánh la đà xuống mặt đất nhưnhững dòng lệ tóc tang khóc người tình quá cố.Những cây thùy dương vi vút trong gió như trổigiọng than thở thiết tha. Những dây ti-gôn trổhoa có hình quả tim vỡ đôi đã gieo cho nhà thơ TT.Kh biết bao hoài cảm ngậm ngùi, biết bao tâm sựcay đắng. Những cây mua hoang dại (giống nhưcây sim) trổ hoa tím man mác bâng khuâng cùng những trái tím thangội nên những vết thương dập nát mà máubầm vẫn còn ứ đọng chưa tan...

      Xin đọc bài ''Dòng SôngKỷ Niệm'' trong thi tập ''Nỗi Lòng Cô Phụ''(7):

 

Xa vắng đôi bờ cách núi sông

Tơ tình anh có bận lòng không?

Em thờ thẫn đọc dòng thơcũ,

Thương nhớ người ơi!Lệ đổ dòng.

Mỗi chiều về lặng đứngbên sông,

Nhặt ánh tà duơng nhạt sắchồng.

Nguồn nước yêu đương, ôi!Ngọt quá!

Bầy chừ vẩn đục nhữngrêu rong.

Sao em thấy trong dòng sông ấy,

Có dáng anh ngồi mỏi mắt trông,

Em khẽ gọi anh qua nắng nhạt:

''Mình ơi! Cá lội có xuôi dòng?

Có đem trăng nước về bênấy?

Thả cánh buồm yêu ấp ủ lòng.

Có ngược thời gian về dĩ vãng?

Giòng sông bẽn lẽn vẫn chờ mong;''

(trang 111)

 

      Những kẻ bất hạnhtrong tình yêu, trong hôn nhân thường ưa trở vềthời dĩ vãng của cuộc hạnh ngộ.  Bài ''Ai Biết... Tình Ai?'' trong thitập ''Khung Trời Kỷ Niệm'' mở chongười đọc một thuở yêu đươngthơ mộng của tác giả Hoàng Xuyên Anh giữacảnh hoa bướm xôn xao màu sắc và ngào ngạthương xuân. Nhưng cái thửa ấy đã bịlớp tro dĩ vãng phủ lên tuy không để lạitrong lòng chị một vết thương khó lành lặn,nhưng vẫn giăng mắc trong tâm hồn chịmột lớp mây xám thê lương của cảnh tiêusơ:

 

Thuở ấy yêu xuân ai biết nào?

Trầm trồ anh ngắm áng mây cao,

Nắng xuân dìu dịu tươi hồngmá,

Nắng ở trên mây, nắng nghẹn ngào.

*

E ấp làm sao một đóa hồng!

Nụ xuân biêng biếc đợi chờmong.

Bướm ong bay lượn phươngtrời lạ,

Một chút tình xa chẳng ấm lòng.

*

Lan, mai, cúc, trúc dáng khoe xinh,

Xuân đợi chờ ai? Xuân hữu tình.

''Xuân khứ, xuân lai, xuân bất diệt'',

Xuân nào vương vấn chuyện đôimình?

*

Bây chừ anh chở nỗi sầu cay!

Sao để ngày qua lại tháng ngày?

Héo hắt nàng xuân lạc lối mộng,

Bao mùa thu đổ lá vàng bay.

*

Ai biết tình anh có trắng trong?

Có yêu... nhưng sợ xuân phai hồng?

Ngắm nhìn cũng đủ lòng vuisuớng?

Ca tụng muôn lời thỏa ướcmong?

(trang53)

 

      Bài ''Tâm Sự Đêm Trăng''trong thi tập ''Khung Trời Kỷ Niệm'' không vẽbối cảnh chập chờn phiêu diễu dưới ánhtrăng, mà chỉ nói tới cái hạnh phúc trong phút vaikề má tựa. Ngoại cảnh thiếu vắng,nhưng cái lẩn thẩn, cái lẩm cẩm của kẻđang yêu và  đượcyêu làm cho bài thơ thập phần thơ mộng. Hãy nghe:

 

Hãy xích gần nhau chút nữa anh

Vỗ về em nhé suốt năm canh,

Cho vơi tâm sự nhiều cay đắng,

Cho mắt thôi buồn lệ chảy quanh.

*

Anh hãy lau khô giọt lệ sầu,

Xây thành vọng nguyệt chốngthương đau.

Đêm trăng đàm đạo hồn thathiết,

Bóng nguyệt xuyên mành, ta có nhau.

*

Hãy nói đi anh chuyện nước non,

Nghìn năm thanh sử mãi lưu son,

Anh hùng, hào kiệt trong kim cổ,

Vị quốc vong thân dạ sắt son.

*

Hãy nói đi anh chuyện đất trời

Khai thiên lập địa một lầnthôi.

Adong, Evà cùng chung bước,

Vườn địa đàng. Ôi! Cảnhtuyệt vời.

*

Rồi chuyện tương lai của chúngmình,

Ông bà ghi dấu thuở lưu sinh,

Cho em một chút niềm hy vọng,

Vườn mộng huy hoàng, xinh thậtxinh!

(trang 56)

 

      Bài ''Đợi Tình'' trong thitập ''Khung Trời Kỷ Niệm'' cũng là phút hồitưởng quá khư thơ mộng để rồiphải đối diện cái hiện tại áo não chánchường. Đây là cái bóng phản chiếu thơcủa các thi nhân thời tiền chiến khi phong tràothơ văn lãng mạn dâng cao, làm ngập lụt vàướt sũng những tâm hồn thanh xuân khao khátsống.

 

Anh ạ, hôm nay chiều thứ bảy,

Đường phố xôn xao lắmtiếng cười,

Tài tử giai nhân đi tấp nập,

Em ngồi chờ đợi mộtniềm vui.

*

Nghĩ thầm anh sẽ đến thămem,

Tiếng sáo nhà ai trải khúc êm,

Dấy động tâm tư niềm hạnhphúc,

Xiêm y yểu điệu dáng tơ mềm.

*

Soi gương, điểm phấn hồngđôi má,

Kẽ mắt, mày xanh thắm néttươi.

Thấp thỏm tim lòng nôn nóng lạ,

Đứng lên, ngồi xuống, ngóng xa xôi.

*

Chiều nhẹ trôi nhanh phủ bóng mây,

Sương khuya lành lạnh cánh hoa gầy.

Chập chùng ảo mộng theo sươngkhói,

Mờ mịt chân trời dáng chim bay.

*

Đường mây cánh nhạn dạonơi nao,

Bến vắng tơ vương ngọntrúc đào.

Cành liễu nhớ ai buồn rũrượi?

Đêm dài tĩnh mịch bóng trăng sao.

(trang 50)

 

      Những kẻ bắt hụttình yêu hoặc tìm gặp được tình yêu nhưngđể nó trơn trợt vuột khỏi  tay mình thường sống trongcái ảo ảnh lộng lẫy được vẽvời trong trí tưởng tượng của mình. Xinđọc bài ''Tắm Ánh Trăng Vàng'' trong thi tập''Khung Trời Kỷ Niệm''. Ở đây, tác giả phavào thơ trử tình một chút hơi hướm củathơ siêu thực, một chút phấn hương củaloại thơ ấn tượng.

 

Ta về tắm ánh trăng mơ,

Đường hoa lối mộng ngẩnngơ mắt nhìn.

Thuyền trăng bóng nước lung linh,

Chứa bao ân ái kết tinh tụ hồn.

Nhạc lòng thổn thức tình son.

Sóng xao ánh mắt xoay mòn tim em.

Đắm say trong phút trao duyên,

Tâm tư giao động rộn thềmtrăng yêu.

Tình ơi! Giấc mộng diễm kiều,

Một vầng trăng tỏ vạnđiều ước mong.

Trăng xưa, đêm cũ tình nồng,

Bướm hoa chung lối, tiếng lòng thânthương.

Tơ trời giăng mắc muônphương,

Nụ hôn ngọt mật ướphương men tình.

Vườn lòng một đóa hoa xanh,

Vùng trời thuơng nhớ phiêu linh mơmàng.

Gió ơi! Đừng thổi tình tan,

Để em tắm ánh trăng vàng yêuthương.

(trang 116)

 

      Tuy nhiên bài ''Tình Trong Ảo Mộng''trong thi tập ''Khung Trời Kỷ Niệm'' là bài tiêubiểu tiếng lòng của một nhà thơ bấthạnh dù có ước mơ hoang tưởng, nhưng  đây là một bài tâm sựcủa kẻ cô đơn gợi lên mối thươngtâm sâu đậm cho người đọc đúng hơn :

 

Bên anh lòng thấy vui tươi,

Mấy ngày thơ mộng bằngmươi năm sầu.

Thời gian nước chảy qua cầu,

Thúy đình hiên trúc vương màu nhớnhung.

Hắt hiu ngọn gió lạnh lùng,

Người trong sương gió mịt mùngkhuất xa.

Con tàu hò hẹn nhạt nhòa,

Bóng đêm đen thẳm mình ta độchành.

Lạc đàn tiếng hạc mong manh,

Chạnh lòng cô lữ mắt xanh lệ tràn.

Bơ vơ kiếp sống lang thang,

Thoáng vui phút chốc võ vàng canh thâu.

Dở dang ôm ấp mộng đầu,

Ve u buồn trổi khúc sầu đơncôi.

Thuận Hòa thung lũng ngậm ngùi,

Dù trong ảo mộng trọn đờinhớ thương.

(trang 68)

 

*

*   *

 

       Hoàng Xuyên Anh đến vớiđộc giả khắp bốn phương trờihải ngoại bằng tâm sự thiết tha củanữ sĩ Lý Thanh Chiếu vào thời mạt điệpnhà Tống để khóc thời hạnh phúc lứa đôingắn ngủi. Chị đến bằng giọt lệcủa nữ sĩ Tương Phố (8) khóc ngườichồng yểu mệnh. Nhưng cả hai bà kia chỉ khócchồng. Đằng này, nữ sĩ  Hoàng Xuyên Anh còn phải khóc con, khócluôn cái dung nhan bị tai nạn phi cơ tàn phá. Ngày nay, dùchị được các nhà giải phẩu thẩmmỹ tái thiết trùng tu lại gương mặt. Nhưng họ làm sao trảlại cho chị một khuôn mặt bén nhạy vớicảm xúc? Làm sao trả lại cho chị cái chân dungphản ảnh một tâm hồn thơ mộng và trànngập phong vị trử tình? Làm sao trả chị mộtánh mắt âu yếm, một nụ cười tươiđẹp vì hạnh phúc trong sáng dịu lành ? Cho nên thơcủa chị là những khúc bi ca dội sâu vào nộigiới người đọc một nỗi buồn bénnhọn để họ đối diện với cănphần oan nghiệt đã lạnh lùng giáng xuốngcuộc đời một phụ nữ có một thờithanh xuân hạnh phúc hiền hòa như chị.

      Xin đọc bài thơ''Kiếp Sau'' trong thi tập ''Nỗi Lòng Cô Phụ''để được nghe những lời tâm sự chânthành của người cô phụ đất San Jose:

 

Nếu kiếp trước em nhiềutội lỗi,

Kiếp này xin làm trâu ngựa đềnbồi.

Đày đọa làm chi thân tàn tật,

Đêm dài không ánh trăng soi.

Không hương, không sắc, không danhvọng,

Và cũng không niềm tin cuộcđời.

Gió hờn rít khẽ qua môi,

Rêu phong phủ kín một đời sầuđau.

Đường đời lỡbước chân vào,

Say mê bến đục tính sao bây giờ?

Gió hỡi gió bao giờ hết kiếp?

Trăng hỡi trăng có biết chochăng?

Kiếp này đày đọa xác thân,

Kiếp sau chẳng làm thông rét muớt,

Cũng không làm người,

Không làm bướm lạ lảlướt vườn hoa.

Không làm màu sắc kiêu sa,

Không làm ve ru mùa hạ,

Không làm nhà thủy tạ,

Cho thiên hạ thóc mách xem chơi.

Mà làm thần gió chơi vơi,

Thảnh thơi đi khắp chân trờiem yêu.

(các trang128 129)

 

      Phật bảo rằng có hìnhthể, có săc tướng là có hoại diệt theo vòngsinh, lão, bệnh, tử. Trước hết là cái già làm chonhan sắc tàn phai, thân vóc lệch lạc héo úa Rồi sau khibất cứ một mỹ nhân nào hoặc là ta chếtđi, hình hài xương cốt ta tan rã, trở vềvới cát bụi. Cái tai nạn khủng khiếp xưađã cố tình hủy hoại nhan sắc tác giả,nhưng nó vẫn gieo vào tâm thức chị một tia sángvề sự khởi sinh và sự hoại diệt. Cho nênchị không muốn kiếp sau mình mang nặng tấm chândung và tấm hình hài nữa. Và chị muốn làm thầngió vô ảnh vô hình, thong dong tự tại lưu hànhkhắp bốn phương trời bao la  khoáng đạt. Ở đây,từ khái niệm tư tuởng Phật Giáo chịđưa thơ bước sang lãnh vực Lão Trang.

      Nhưng đó chỉ làgiấc mơ thì bao giờ cũng vẫn... là giấcmơ. Giấc mơ ấy vuợt qua sức nguời vàvẫn ở trong bàn tay Tạo Hóa thì dễ gì  giúp cho nhà thơ nữ Hoàng XuyênAnh của chúng ta thực hiện nổi. Bất hạnhxưa, tang tóc cũ đã khắc ghi vào tâm khảm chịmột vết thương sâu đậm và dù giờ đâynó đã lành lặn nhưng nó vẫn để lại chochị một vết sẹo khó phai. Cho nên ở bài''Muời Năm Tình Nhớ'' trong thi tập ''Khung TrờiKỷ Niệm'', chị cho chúng ta biết rằngchuyện tai ương cũ và cái chết củangười chồng yêu quý vẫn là một ám ảnh khóphôi pha đối với chị:

 

Mười năm tình tự còn nguyên,

Mười năm nhung nhớ triền miênnỗi sầu.

Gọi anh đâu? Tìm anh đâu?

Trăng soi bến lạnh, nương dâubẽ bàng.

Đường trần lê gót dở dang,

Mưa tuôn, nắng hạ, lệ tràntrăng thanh,

Còn đâu những chuỗi ngày xanh,

Phượng loan ríu rít trên cành yêuđương.

Tìm đâu tiếng ngọt thân thương,

Đất trời nghiêng ngã theođường anh đi.

Đam mê ôm mối tình si,

Bao nhiêu kỷ niệm khắc ghi trong lòng.

Thẫn thờ gối chiếc phòng không,

Nhìn qua di ảnh mặn nồng lứađôi.

Vì sao tình phải chia phôi,

Nghìn năm em mãi ngậm ngùi bóng mây.

(trang 75)

 

      Bài thơ chan hòa ''giọtlệ thu'' của Tương Phố, soi lại mộtđoạn đời nổi dậy ''mưa gió sôngTương''  của bà nữsĩ ấy. Tiếng khóc chồng trong thơ của HoàngXuyên Anh là bức phóng ảnh tiếng khóc trong thơcủa nữ sĩ Tương Phố. Nhưng câu kếtlại khéo léo hơn, đưa độc giảđến ý niệm cái hạnh phúc thời quá khứ trôiqua không bao giờ trở lại. Như bóng mây trôi quađể rồi sa mưa hoặc tan theo gió, nếu cótrở lại chăng nữa thì nó đâu còn hình hài nguyênvẹn thuở xưa. Nó gợi lên ý tình trong bài thơ ''LaFuite de la Jeunesse'' (''Tuổi Xanh Trôi Mất'') của Joachimdu Bellay; bài này được đưa vào quyển giáo khoatrung học ''Les Auteurs du Noveau Programme'' ( ''Những TácGiả Chương Trình Mới''). Ngày xanh trôi qua mang theoluôn hạnh phúc thắm tươi của những tâmhồn lành mạnh trẻ trung.

       Người chồng yêudấu của tác giả đã ở bên kia cõi sống,cuộc gặp gỡ chỉ có thể trong cơnđồng thiếp và trong giấc chiêm bao, nếu vonghồn của chàng hiển linh, nếu giấc chiêm bao làphản ảnh của thực thể. Tuy vậy, chịvẫn mơ một cuộc gặp gỡ nên chị ký tháctâm sự mình cho tâm sự người cô phụ tìmchồng khắp nơi chân trời góc biển như nàngMạnh Khương thuở xa xưa tìm chồng bênVạn Lý Trường Thành ngoài biên ải. Xin cùngđọc bài ''Tìm Anh'' trong thi tập ''Khung Trời KỷNiệm'':

 

Tim anh khắp quả địa cầu,

Tuyết sương trắng phủ con tàuđong đưa.

Tìm anh giải nắng dầm mưa,

Rừng thay bao lá, người chưathấy về.

Tìm anh khắp nẻo sơn khê,

Cầu bao nhiêu nhịp lê thê nỗi sầu.

Gập ghềnh mỗi bước vềđâu?

Đường đi muôn ngả, niềmđau chất chồng.

Tìm anh xuân, hạ, thu, đông,

Vết thương loang lở lạnh vòngtay tiên.

Lang thang em mãi kiếm tìm,

Mênh mông nỗi nhớ triền miên ngậplòng.

Tìm anh bóng xế hoàng hôn,

Sương pha màu tóc, sóng cồn dậykhơi.

Tìm anh suốt cả cuộc đời,

Duyên đi sai hướng, tình trôi saichiều.

Âm thầm trong cảnh cô liêu,

Sông dài, bến vắng, đò chiềungẩn ngơ.

Kiếp tằm thì phải nhả tơ,

Em tìm cánh nhạn mịt mờ khóisương.

(trang 74)

 

      Tâm sự tóc tangđược thể hiện rõ rệt nhất trong bài''Tình Người Cô Phụ'' trong thi tập ''Nỗi Lòng CôPhụ''. Đây là ném tâm hương để tác giảthắp lên,  hoài niệmngười quá cố mà cũng ghi lại giai đoạncáo chung của thời kỳ hạnh phúc trong cuộcsống lứa đôi. Và đây cũng là một trongnhững bài thơ bung vỡ cảm tính của tác giả.Bao nhieu thống khổ, mất mát trước đódồn chị vào một con đường tối đen,không một tia sáng bạc nhược nào lóe bên chân trờiviễn ảnh. Cho nên giờ đây, chị  không thể để cho đôi dònglệ tuôn chảy âm thầm. Ngọn trào lòng phảibật ra thành tiếng mới làm cho chị bớt bịđè nén bởi sự đau đớn tuyệt vọngnghìn cân đè nặng lên nội giới của chị.

 

Tình em như áng mây ngàn,

Phương trời vô định thênh thangdặm dài.

Tình nào cho kẻ đắng cay?

Bẽ bàng duyên kiếp đọa đày xácthân.

Tình tròn cho kẻ chinh nhân,

Sơn hà xã tắc dấn thân bụi mờ

Tình thương cho kẻ không bờ,

Con thuyền lạc bến bơ vơgiữa dòng.

Tình thơ cho kẻ long đong,

Thi nhân, kiếm khách vẫy vùng dọc ngang.

Tình hờ cho kẻ lỡ làng,

Con đò bến cũ ngỡ ngàng chào nhau.

Tình đầy cho kẻ thươngđau,

Nửa chừng xuân mộng lao đaotrọn đời.

Tình mơ theo kẻ ra khơi,

Nhớ người viễn xứ lệrơi đôi hàng.

Tình non, tình nước, tình chàng,

Tình người nồng ấm phủ quàngđôi vai.

Bao nhiêu tình ấy hôm mai,

Gom hoa phủ trắng quan tài cho anh.

Nén hương khấn nguyện lòng thành,

Môi son má phấn trơ cành cây khô.

Sao trời lạc bến hư vô,

Tiếng than ai oán, tiếng thơ ngânsầu.

Mưa tuôn nuớc cuốn lệ trào,

Bao nhiêu tình nghĩa chôn vào mồ anh.

Còn đâu ân ái ngày xanh?

Trời gieo tang tốc vây quanh nấmmồ.

Anh đi tan tác cơ đồ,

Em nào có khác cùng mồ với anh.

Trầm luân vũ điệu thông hành,

Kiếp hoa mảnh hạt sương mànhtreo chuông.

Dật dờ khói trắng chiều buông,

Bao giờ hết kiếp đoạntrường trần gian?

(các trang 36, 37)

 

      Nhàthơ nữ Hoàng Xuyên Anh không nghĩ rắng mình là  nạn nhân của địnhmệnh mà là mình phải chịu trả cái nghiệp quả của thời tiềnkiếp khi chị nhìn cuộc đời xuyên qua giáo lý nhàPhật. Chị còn tin rằng mình phải tuân theo ý Chúa khichị quỳ dưới tượng Nữ ThánhĐồng Trinh Maria. Cho nên chị không oán Trời, khôngtrách đất, không chửi đời hay nguyềnrủa thế nhân. Ở bài ''Hồi Chuông Chiêu Mộ'' trongthi tập ''Khung Trời Kỷ Niệm'', chị cầu xinPhật Tổ soi đường đạo pháp cho chịtrước là cầu cho vong linh người quá cốtỉnh ''giấc mê thường'' (sic) và sau là cầu chomình lánh xa phiền não để được sống anvui.

 

Ta về gióng một hồi chuông,

Gọi anh tỉnh giấc mê thườngmông lung.

Lời kinh như sóng trùng dương,

Bao la bát ngát tỉnh đường tu thân.

Giọt sương hồi hướngtrong ngần,

Đời anh sương gió hồngtrần đam mê.

Điệu ru man mác sơn khê,

Tay nâng tràng hạt bồ đề từtâm.

Nam mô Phật Tổ cao thâm,

Soi đường đạo pháp thấmnhuần người thương.

Mau mau về dưới Phậtđường,

Hồi chuông chiêu mộ tìm đườngan vui.

(trang 117)

 

      Ở bài ''Thì Thầm CầuMẹ La Vang'', cũng trong thi tập ''Khung Trời KỷNiệm, tác giả cầu Đức Mẹ Maria giúpchị tìm lại chuỗi ngày an lạc và hạnh phúc xaxưa vói trái tim nguyên vẹn không tì vết. Như thế,chỉ có vấn đề tâm linh mới làm nhữngđiểm tựa tinh thần kiên cố cho tác giả:

 

Thì thầm cầu mẹ LA VANG,

Làm sao tẩy sạch vết hằn trongtim?

Đời con đau khổ triền miên,

Sóng xô biển dập, ướt mèm lá hoa.

Thở than dưới ánh trăng tà,

Mẹ ơi! Ban chút lụa là thươngyêu.

Sông Ngân một giải đìu hiu,

Hồng trần ô trọc dập dìu quỉma.

Tình, tiền vun vút bay xa,

Hồn con vất vưởng la đà giólay.

Chắp tay khấn mẹ van nài,

Xin cho con được chuỗi ngày yêuxưa.

Quyền năng của mẹ dưthừa.

Xin cho con hết nắng mưa dãi dầu.

Con quỳ lạy mẹ ơn sâu,

Tình yêu của mẹ nhiệm mầuđời con.

(trang 118)

 

*

*   *

 

      Trên con đườngđưa vào thi ca lãng mạn êm ái như gươngmặt hồ, bát ngát cảm khái trử tình như khóitỏa sương lan, đôi lúc HoàngXuyên Anh theo lốicũ rêu phong, trở về lối thơ thất ngôn bát cúđẹp như cảnh đình viện cổ kính trong ánhnắng bàng bạc không khí vào hai triều đạiĐường Tống bên Tàu.

     Thuờng là những bài thùtạc giữa tác giả với kim bằng thân hữuhoặc với kẻ thân tộc ruột rà. Thườnglà những bài chúc tụng những cái đẹp củanhững tâm hồn thiết tha với văn hóa xã hội.

      Xin đọc bài ''Mừng SinhNhật Lương Anh Thư'' trong thi tập ''KhungTrời Kỷ Niệm'':

 

Mừng con sinh nhật tuổi trăng tròn,

Chân sáo tung tăng hót véo von.

Mắt biếc long lanh ươm sắcmộng,

Tóc huyền óng ả xõa vai thon.

Xuân xanh tuổi dại chưa tròn giấc,

Dáng ngọc môi khờ ửng nét son.

Mơn mởn vườn hồngtươi tắn nụ,

Khung trời diễm tuyệt ngọtmăng non.

(trang 124)

 

      Vóc dáng thơ bỗngđổi ra đài các, đẹp như gấm, óng ảvóc nhung tơ, đuợm âm sắc thơ thất ngôn bát cúthuộc loại tân cổ điển của nữ sĩMộng Tuyết Thất Tiểu Muội.

         Và cũng như hai nữsĩ gốc Nam Kỳ Lục Tỉnh hồi cuốithế kỷ 19 và bước qua thập niên 10 củaThế Kỷ 21 là Trần Ngọc Lầu và Trần KimPhụng (9), nhà thơ đất Vĩnh Bình Hoàng Xuyên Anhsong song vơi thơ cảm hoài thân phận, nhưngvẫn không quên trách nhiệm một công dân vào thờithế nhiễu nhương mà những anh hùng hào kiệthiếm hoi,  bao thánh hiềntriết gia tịch mịch. Chị mượn bài thơ''Xuân'' cũng theo thể thức thất ngôn bát cú  trong thi tập ''Nỗi Lòng CôPhụ'' để nhắn nhủ kẻ lưu vong hãy nuôingọn lửa thiêng dành cho ơn nhà nợ nước.

 

Xuân này mười chín cái xuân qua,

Nuôi mộng chinh nhân trở lại nhà.

Bút luyện đường thơ phơitấc dạ,

Mực mài gan thép rạng đời hoa.

Năm canh, nhớ nước, quêngười lạ,

Đôi hướng, thương mình,lối xóm xa.

Xa cách nghìn trùng non với nước,

Đạt thành chí lớn quyết xông pha.

(trang 92)

 

      Cũng vậy bài ''Xuân ThaHương'' trong thi tập ''Khung Trời Kỷ Niệm''cũng là bài thơ để tác giả ký thác tâm sự áiquốc của mình trước cảnh luu vong biệtxứ. Đây cũng là tâm sự phổ thông, là mẫusố chung của những nhà thơ tuy có thích ứngcuộc sống trên đất nước địnhcư, nhưng không tìm ra điểm tựa tinh thầnđích thực kiên cố và trường cữu.

 

Én lượn trời xa luống ngỡngàng,

Quê người hoài vọng mấy quan san.

Chạnh lòng tưởng nhớ xuân nămcũ

Lưu niệm bâng khuâng mắt lệ tràn.

Một phút sa cơ anh hùng lụy,

Nghìn năm hỉ hạ lũ gian nhân.

Thiêng liêng anh gọi hồn xuân ngự,

Thắp sáng dùm anh ngọn đuốc vàng.

(trang 93)

 

     Nhưng rồi cũng ởhình thức thơ cổ kính ấy, tác giả vẫnthả vào thơ biết bao tình ý bi ai não nuột như theomột dòng cảm xúc có hữu bất biến. Thơchị trở nên đơn giản và quen thuộc vềphương diện ngôn từ, như bao nhiêu bài than thântrách phận của các bà quả phụ xa xưa trong thigiới như Cao Ngọc Anh, Đào Vân Khanh (10),Tương Phố... Đây là bài ''Nhớ Ai?'' trong thitập ''Khung Trời Kỷ Niệm'':

 

Hồn đơn, tủi phận, nhớthương ai?

Gió lạnh xuyên song, bóng nguyệt cài,

Sông nước đầu nguồn lờlửng chảy,

Mây trời cuối nẻo lửng lờbay.

Đêm sâu nhớ bướm, hoa cònthức,

Ngày cạn trông người, phấnnhạt phai.

Tuyết phủ vườn xuân, tim giálạnh,

Dầm sương bốn bểđợi tương lai.

*

Dầm suơng bốn bể đợitương lai,

Cánh nhạn trời xa mãi miệt mài.

Giấc bướm Trang Chu chưa thứctỉnh,

Hồn thơ Lý Bạch vẫn mê say.

Chập chùng mây khói mờ nhân ảnh,

Khúc khuỷu đường tình lạcbến nhai.

Héo hắt hoa tàn trôi viễn xứ,

Tương tư gầy guộc mảnhhình hài.

(trang 73)

 

      Ở cái thế hệ củaHoàng Xyên Anh, thử hỏi có mấy ai làm thơĐường luật vững vàng niêm luật như HoàngXuyên Anh?

 

 

*

*  *

 

      Hoàng Xuyên Anh là một nhà thơxắn từng mảnh tim của mình rải vào thơ.Chẳng những thế, chị còn vắt những dòngdự lệ sau bao mùa tang tóc cùng máu thắm của con timmình để rưới chan hòa vào thơ. Tiếng thơchị chân thành, phản ảnh nguyên vẹn cuộcsống tâm tình của chị. Chị không cần tìmkiếm một chân trời mới sáng rực thần trísáng tạo cho thơ. Chị cần viết lên những câuthơ bằng sóng lòng lai láng cùng những rung cảmhồn nhiên của mình. Chị cũng không cần chămsóc lời thơ, không cần thêu thùa chạm trổnhững câu thơ tinh xảo, cũng không cần nạmkhảm những ngôn từ hoa lệ kiêu sa cho thơ. Trênbước đường hành hương đưavề thế giới thi ca, chị đi chậm rãi, aihồ hào cổ vỏ cái đổi mới, cái trào lưutiếp diễn không ngừng của thi ca thì mặc ai.Chị có một cõi thơ nguy nga và tráng lệ riêng, nhưmột tòa thánh điện được kiến trúcđồ sộ dành cho một thánh nữ giữ ngôivị chưởng môn coi sóc.

 

........................................................

 

      Chú Thích:

(1)        Khổng Dương là nhàthơ tiền chiến, sinh quán ở quận Càn Long,tỉnh Trà Vinh. Xin

xem  tập biên khảo '' Việt NamThi Nhân Tiền Chiến'' của Nguyễn Tấn Long vàNguyễn Hữu Trọng.

(2)        Truy Phong quê ở Trà Vinh là tácgiả tập thơ ''Nửa Thế Kỷ Một VầnThơ'', là giáo sư

mônViệt văn của trường trung học tưthục Trần Trung Tiên.

(3)        Vũ Thi An ngườiVĩnh Bình, em họ của 3 nhà văn Nguyễn thịThụy Vũ , Hồ Trường

An,Trần Long Hồ, cháu của hai nhà thơ Mặc Khảivà Phương Đài, chị dâu của nhà văn Ngô NguyênDũng. Đương sự đã cho xuất bản haithi tập ''Tình Quê Tình Thơ'' và ''Cuối NẻoĐường Hạnh Phúc''.

      (4) Tường Linh là nhà thơgốc người Quảng Nam, tác giả những thitập ''Trăng Treo Đầu Súng'', ''Nghìn Khuya''...

       (5) Kiên Giang Hà Huy Hà gốcngười tỉnh Rạch Giá, là nhà thơ kiêm soạn giả các tuồng hát cảilương. Ông có hai thi tập ''Hoa Trắng Thôi Cài Trên ÁoTím'' và  ''Lúa Sạ MiềnNam''. Về tuồng cải lương ông có các vởnổi tiếng như ''Người Đẹp Bán Tơ'',''Người Vợ Không Bao Giờ Cưới'',''Tiếng Còi Trong Bão Tuyết''...

      (6) Mộng Tuyết ThấtTiểu Muội gốc người tinh  Hà Tiên, là tác giả các tác phẩmnhư sau: ''Nàng Ái Cơ Trong Chậu Úp'' (tiểu thuyếtgiả sử) ,''Dưới Mái Trăng Non'' (tùy bút),''Gầy Hoa Cúc'' (thi tập). Bà đoạt giải thi ca donhóm Tự Lực Văn Đoan chủ trương qua thitập ''Phấn Huơng Rừng'' vào năm 1939. Nhưngthi tập này không được xuất bản thành sách.

      (7) Bài thơ này, tác giả khôngcó phân từng đoạn thơ riêng biệt (les strophes).

      (8) Tương Phố là nhàthơ nổi danh đầu thế kỷ 20. Bà có 2 tácphẩm ''Giọt Lệ Thu'' (văn xuôi lẫn vănvần) và ''Mưa Gió Sông Tương'' (thi tập).

(9)Hai nữ sĩ Trần Ngọc Lầu và Trần Kimphụng là hai nhà thơ đất Nam Kỳ Lục Tinh,

đồngthời với nữ sĩ Sương Nguyệt Anh. Nhàbiên khảo Thái Bạch vào năm 1948 có viết quyển bútkhảo về thi ca ái quốc của ba vị nữlưu ấy. Sách có nhan đề là ''Sương NguyệtAnh, Trần Kim Phụng, Trần Ngọc Lầu''.

      (10) Cụ bà Cao Ngoc Anh là tác giả thi tập ''Khuê SầuThi Thảo''. Cụ Bà Đào Vân Khanh

làtác giả thi tập ''Khúc NhànNgâm''. Hai cụđược nữ sĩ Phương Lan đưa vàoquyển bút khảo ''Anh Thư Nước Việt''.