Liệu có thể xem Phan Khôi (1887-1959) như một tác gia văn học quốc ngữ Nam Bộ?

 Lại Nguyên Ân
Tham luậngửi tới hội thảo khoa học “Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến 1945”do Khoa Ngữ văn và Báo chí, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thànhphố Hồ Chí Minh tổ chức, 26/5/2006

1/ Điều nêu ra ở nhan đề bài này, sở dĩ phải đặt như mộtnghi vấn hơn là một khẳng định, bởi vì người viết những dòng này cũng như cácđồng nghiệp trong giới nghiên cứu không thể không phải đương diện với một tậpquán, tuy không mấy “khoa học” nhưng khá thông dụng trong việc biên soạn các bộđịa chí văn hoá hiện nay ở các tỉnh thành trong hầu khắp nước ta (những bộ địachí thường được xếp vào loại công trình cấp quốc gia, thường được cấp tiền tỉtừ ngân sách công), theo đó căn cứ để tính một tác gia văn học vào trong số tácgia của địa phương mình thường là: a/ quê quán (thường tínhtheo quê cha, đôi khi xét thêm đến thuộc tính quê mẹ) , và b/ trên thựctế có sống và hoạt động văn học tại địa phương. Tiêu chí đầu thường đượcvận dụng phổ biến trong các bộ địa chí cấp tỉnh, và vận dụng bất chấp tiêu chísau, bởi vì những tỉnh không có thành phố lớn thường chỉ có rất ít tác gia “quêgốc” lại đồng thời hoạt động “tại chỗ” (các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ chẳng hạn,tài năng văn học thường tụ hết cả về lòng chảo Hà Thành!); và thế là mặc dù “ngài”tác giả hoạt động ở tận đẩu tận đâu, ít khi bước chân về quê, chỉ cần bố mẹ “ngài”quê gốc ở địa phương này thì địa phương này sẽ tôn vinh tên tuổi “ngài” làmvinh dự cho quê hương. Tiêu chí sau, có vẻ như được ưu tiên trang bị cho việcbiên soạn địa chí của những địa phương có thành phố lớn, có trung tâm văn hoálớn, những nơi từng có mặt hoặc đang có mặt số lượng lớn người hoạt động vănhọc; dữ kiện để chọn dồi dào thì người biên khảo sẽ khoác bộ mặt cau có của kẻkhó tính, sẽ chẳng những đòi hỏi quê gốc tác gia phải ở tỉnh thành này, mà cònđòi hỏi chính tác gia phải từng sống và hoạt động văn học tại đây nữa. Nhưng ởtrung tâm lớn thời nào cũng thường quần tụ nhiều tác gia; trong khi đó, động cơvà mục đích đầu tư cho biên soạn các bộ địa chí là tôn vinh địa phương, làchứng tỏ đất này “địa linh nhân kiệt” hơn những đất khác, cho nên rốt cuộc nhàbiên khảo vẫn sử dụng tra vấn “quê gốc” làm căn cứ để loại trừ bớt những tácgia tuy hiển nhiên hoạt động văn học tại đây nhưng chỉ là dân nhập cư từ nhữngnơi khác! Tóm lại, tiêu chí quê quán hầu như vẫn là tiêu chí duy nhất để tậphợp tác gia theo vùng đất trong các công trình địa phương chí. Tiêu chí này,ngoài những công dụng hiển nhiên của việc biên khảo theo chủ đề, cũng chứa đựngnguy cơ làm đơn giản hoá, thậm chí làm méo mó (trong sự hình dung của ngườitiếp nhận tri thức văn học sử) diện mạo thực của đời sống văn học ở những đôthị lớn qua những giai đoạn khác nhau.

Sở dĩ phải dài lời như trên là vì thực sự tôi chưa rõ đề tài“Văn học quốc ngữ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến 1945” được dẫn dắt theo nhữngquy tắc nào, nhất là về nghiên cứu tác gia, có vận dụng quy tắc “địa phương chí”hiện hành (như mô tả bên trên( hay không?

Sự việc cụ thể là tôi đưa ra tác gia Phan Khôi (1887-1959):quê gốc không ở Nam Bộ, nhưng có thời gian đáng kể sống và hoạt động báo chí,văn học ở thành phố Sài Gòn trên đất Nam Kỳ (nay gọi là Nam Bộ). Vậy có thể đềcập đến hoạt động của Phan Khôi trong đề tài nghiên cứu này không? Vả chăng,Phan Khôi cũng chỉ là một trong khá đông trường hợp các tác gia “nhập cư” vàobáo chương Sài Gòn hiện bị quên lãng thậm chí tại “quê gốc” của mình, ví dụ ĐàoTrinh Nhất (quê Thái Bình), Bùi Thế Mỹ, Phan Thứ Khanh (quê Quảng Nam), và hẳncòn không ít các trường hợp khác.

Phần dưới đây sẽ nêu khái lược hoạt động báo chí và vănchương của Phan Khôi tại Sài Gòn, trong những đoạn thời gian ông sống và viếtbáo viết văn ở đây.



2/ Theo một vài tác giả (ví dụ: Phan Thị Nga (1936), Phan Cừvà Phan An (1996)[1],v.v.) và theo kết quả sưu tầm nghiên cứu của bản thân người đang viết nhữngdòng này, thì Phan Khôi góp mặt với báo chí Sài Gòn từ năm 1919 và từ đó đếnđầu thập niên 1940 (hoặc cuối thập niên 1930) đã liên tục gắn với đời sống vănchương báo chí Sài Gòn, dù suốt thời gian ấy không phải lúc nào cũng sống ởđây. Có thể nói chính môi trường báo chí văn chương Sài Gòn đã là nơi nuôidưỡng cây bút Phan Khôi từ điểm định hình đến độ trưởng thành, là nơi cây bútviết báo viết văn của ông làm việc năng sản nhất, hiệu quả nhất. Chính môitrường báo chí văn chương Sài Gòn đã đề xuất Phan Khôi như một trong khôngnhiều những tên tuổi xuất chúng của mình trên trường dư luận toàn quốc đươngthời.

Phan Khôi can dự văn chương không hiếm khi với tư cách ngườisáng tác (làm thơ, viết truyện ngắn, truyện dài) nhưng thường khi với tư cáchngười bình luận, người nghiên cứu, hoặc với tư cách dịch giả. Và ở Việt Nam,nếu đời sống văn học, trước hết là ở Nam Kỳ, từ nửa cuối thế kỷ XIX, bắt đầudạng thức tồn tại trên hai loại hình (hoặc hai kênh) chính của truyền thônghiện đại là xuất bản và báo chí, thì hoạt động văn chương và học thuật của PhanKhôi được thực hiện chủ yếu trên kênh báo chí. Hoạt động của ngòi bút ông gắnvới báo chí đến mức di sản của ngòi bút ông có cơ mất hút trong mắt các lớp hậuthế nếu họ chỉ tìm ông theo cái kênh dễ soi là sách xuất bản thời trước và dovậy chỉ thấy được một ít văn phẩm (Chương Dân thi thoại, Việtngữ nghiên cứu, ...) dường như chưa xứng tầm cỡ tác giả !

Tờ báo đầu tiên ở Sài Gòn mà Phan Khôi đăng bài có lẽ làtờ Lục tỉnh tân văn. Ông có bài đăng báo này hầu như ngaysau khi thôi cộng tác với tạp chí Nam phong ở Hà Nội. Bài cuốicùng ông đăng Nam phong (Về việc cấm rượu ở các nước cùngviệc rượu lậu ở nước ta // N.P.s. 23, tháng 5/1919) thì cũng ngaytrong tháng ấy, ngày 7/5/1919 trên tờ Lục tỉnh tân văn ở SàiGòn đã có bài của Phan Khôi. Ban đầu ông đăng sáng tác: hai bài ca ĐưachồngNhớ chồng, thác lời người vợ có chồng là línhtùng chinh sang Pháp tham gia thế chiến thứ nhất, đều là bản dịch hai bài thơchữ Hán đã đăng Nam phong (Sau này vào năm 1958 ở miền Bắc,Phùng Bảo Thạch sẽ “hồi cố” nội dung hai bài này để tố cáo thái độ “ôm chân đếquốc” của Phan Khôi). Nhưng những loạt bài kéo dài thành mục báo đăng nhiều kỳcủa Phan Khôi trên Lục tỉnh tân văn năm 1919 lại là về đề tàithường thức xã hội và về ngôn ngữ. Đó là mục Làm dân phải biết (vớinhững nội dung bài từng kỳ báo lần lượt là: – Nước mẹ đẻ; – Địa dưnước An Nam; – Chính trị nước An Nam; – Phong tục nước An Nam; – Dân phảinộp thuế;...) và mục Ghi chép tiếng An Nam (tôi tìm được10 kỳ báo có bài của mục này, từ 12/5 đến 25/6/1919).

Thời gian Phan Khôi cộng tác với tờ Lục tỉnh tân văn rấtngắn, chỉ trong vòng vài tháng. Theo Phan Thị Nga (1936, tài liệu dẫn trên) thì“làm được ít lâu vì ông viết một bài kịch liệt quá người ta buộc ông thôi, ônglại ra Bắc ...”.

Bài báo “kịch liệt quá” ấy, nếu là bài đã đăng, thì, theotìm hiểu của tôi, đó có thể là bài Giải đại ý bài diễn thuyết của quanToàn quyền Sarraut về cuộc Đông Dương tự trị đăng hai kỳ báo (LTTV. 14/5và LTTV. 21/5/1919). Theo thông tin trong bài báo ấy thì trước đóít lâu, tại một buổi tiệc trà của hội Khai trí Tiến đức ở Hà Nội, Toàn quyềnĐông Dương Albert Sarraut có bài diễn thuyết về chủ đề Đông Dương tự trị; Lụctỉnh tân văn đã đăng toàn văn bài diễn thuyết ấy; bài viết của tác giảChương Dân chỉ đưa ra những lời giải thích; trong những điều ông giải thích cóchỗ nói rằng: “chữ ‘Đông Dương tự trị’ đó nghĩa là phủ Toàn quyền Đông Dươngđối với Mẫu quốc mà được quyền tự trị, chớ không phải người Đông Dương đối vớinước Lang Sa mà được quyền tự trị đâu”, tức là Phan Khôi nói trắng ra rằng Toànquyền Sarraut nói “Đông Dương tự trị” là nhằm đòi thêm quyền cho mình chứ khôngphải đòi quyền cho dân Đông Dương. Phải chăng chính ý này đã khiến Toàsoạn Lục tỉnh tân văn cho là “kịch liệt quá” và buộc ông thôicộng tác?

Dẫu sao thì sự hiện diện lần đầu trên báo chương Sài Gòn củaPhan Khôi cũng tạm chấm dứt ở đấy. Ông trở ra Hà Nội cộng tác với các tờ Thựcnghiệp dân báo và tạp chí Hữu thanh, nhận lời cộng tácdịch Kinh Thánh Ki-tô giáo cho hội thánh Tin Lành.

Vài ba năm sau, Phan Khôi lại vào Nam, chưa rõ từ thời điểmcụ thể nào, cũng chưa rõ khi vào có viết ngay cho tờ báo nào hay không; chỉ cónguồn tư liệu (theo Phan Cừ và Phan An, 1996, tư liệu đã dẫn) cho rằng, sau khivào Nam lần này, vì một lý do gì đó, Phan Khôi phải chạt xuống Cà Mau ẩn náunơi nhà một người bạn là chủ đồn điền, dành thời gian tự học thêm tiếng Phápqua thư từ với Djean de la Bâtie, một nhà báo tự do người Pháp ở Sài Gòn.

Theo tìm hiểu của tôi, thời kỳ thứ hai Phan Khôi góp mặt vớibáo chương Sài Gòn có thể tính từ đầu năm 1928. Thời kỳ này kéo dài đến năm1933 hoặc 1934, gắn với các tờ Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụnữ tân văn, Trung lập. Thời kỳ này đánh dấu sự chuyển biến về chất củangòi bút Phan Khôi. Lại xin dẫn lời nữ ký giả Phan Thị Nga (1936, HàNội báo): “Ông bắt đầu viết được lối văn sát sóng như lối văn ông hiện giờ,từ hồi ông làm cho Đông Pháp thời báo ở Nam”(tanên lưu ý điều này: bà Phan Thị Nga khi đó đang làm cho báo Tràng An ởHuế; bài báo của bà là kết quả hỏi chuyện trực tiếp Phan Khôi, – khi đó đanglàm chủ nhiệm tờ Sông Hương cũng ở Huế, nên nhiều điều trongbài có lẽ là ghi lại lời bộc bạch của chính Phan Khôi).

Xin được nhắc lại một vài tình tiết thuộc “báo chí sử” SàiGòn, khi Diệp Văn Kỳ trở về từ Pháp với tấm bằng cử nhân luật nhưng lại thíchmôi trường báo chí văn chương (nhân tiện xin nhắc rằng Diệp Văn Kỳ là tác giảkhá nhiều tác phẩm sân khấu như Tứ đổ tường, Áo người quân tử, Bể áiđầy vơi,... lại cũng là tác giả một số tiểu thuyết, ví dụ Chưa dứthương thề đăng Thần chung từ 4/7/1929; đây cũng làmột trong những tác giả cần được xét xem có phải là “tác gia Nam Bộ” haykhông). Cuối năm 1927 hai ông hội đồng Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá mua lại từtay Nguyễn Kim Đính tờ Đông Pháp thời báo (cũng có tên tiếngPháp Le Courrier Indochinois). Học giả Huỳnh Văn Tòng (2000) nhậnxét rằng “hai ông này đã biến đổi hoàn toàn tờ báo”, biến nó từ chỗ “có khuynhhướng thân chính phủ” trở nên “có khuynh hướng đối lập” và “là tờ báo có rấtnhiều người đọc”[2].Việc Đông Pháp thời báo mời được Tản Đà và Ngô Tất Tố từ Bắcvào tăng cường cho bộ biên tập và làm gia tăng rõ rệt thành phần văn chương vănhoá trong nội dung tờ báo, – thì nhiều nhà nghiên cứu (Thanh Lãng, Phạm ThếNgũ, Huỳnh Văn Tòng,...) đã ghi nhận. Nhưng việc Phan Khôi cũng góp mặt trên tờbáo này từ khi nó thuộc về hai chủ nhân mới, – thì ít thấy nhà nghiên cứu nàoghi nhận, hoặc nếu có ghi nhận thì chỉ nói chung chung là Phan Khôi có lúc viếtcho Đông Pháp thời báo chứ không ghi nhận cụ thểgì hơn. Lý do có lẽ cũng đơn giản do cách tái xuất hiện khá kín đáo lần này củachính Phan Khôi trên báo chí Sài Gòn: tất cả các bài đưa đăng Đông Phápthời báo, từ những bài tranh luận với Trần Huy Liệu và Huỳnh Thúc Kháng vềmột đoạn sử quan hệ Pháp-Việt thế kỷ XVII - XVIII, kể cả “Nam âm thi thoại”mà tên sách và những bài đầu tiên của nó đã từng xuất hiện trên Namphong những năm 1918-1919, kể cả bài thơ “Dân quạ đình công”làm từ sau “vụ án xin xâu” ở miền Trung hồi cuối thập niên đầu thế kỷ XX, v.v...,tất cả, Phan Khôi đều ký tắt hai chữ C.D. – hai chữ cái đầu tên hiệu ChươngDân mà ông đã dùng để ký dưới các bài báo của mình trên tạp chí Namphong hồi trước.

Trong sốnhững bài Phan Khôi đưa đăng trên Đông Pháp thời báo, chỉ có ít bàibình luận thời sự chính trị (ví dụ Cái tình thế chánh trị xứ Trung kỳvà Nhân dân đại biểu viện xứ ấy // ĐPTB 28/8/1928;Ít lời lạm bàn về chánh sách của ông Pasquier, quan Toàn quyền mới Đông Pháp //ĐPTB 30/8/1928),nhưng có khá nhiều bài thiên về khảo chứng hoặc bình luận sử học. Nổi bật làchùm bài tranh luận phản bác điều mà ông gọi là “cái thuyết nước Pháp giúp nướcNam về hồi cuối thế kỷ XVIII”; cạnh đó là những bài cũng phản bác “cái thuyếtchâu Âu sắp tan nát” của học giả Cô Hồng Minh (1856-1928), nhận diện tình hìnhhọc thuật tư tưởng ở Trung Hoa đương đại, so sánh đặc điểm tư tưởng phương Đôngvà phương Tây, khẳng định việc lớn trước mắt phải làm ở phương Đông, ở châu Álà phải “Âu hoá”, phải học văn minh phương Tây để đưa xã hội mình lên trình độcủa thế giới hiện đại (Học thuyết cũ với vận mạng mới nước Tàu // ĐPTB 26/7/1928; Mấylời kết luận về Cô Hồng Minh và cái thuyết Âu châu sắp tan nát //ĐPTB 15/9/1928; Tưtưởng của Tây phương và Đông phương //ĐPTB 27/9 và2/10/1928; Bác cái thuyết tân cựu điều hoà //ĐPTB 11/10/1928).

Thời Phan Khôi, Tản Đà, Ngô Tất Tố cùng cộng tác với ĐôngPháp thời báo cũng có thể xem là thịnh thời của “văn hoá đọc”, khi màtrên báo chí Sài Gòn, truyện đều kỳ (feuilleton) được in xen kẽ với quảng cáonhư là phần thưởng toà soạn dành cho người đọc các trang quảng cáo. Vào dịp cómột loạt khách văn sĩ thi nhân nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc tụ hội ở báo mình,toà soạn Đông Pháp thời báo đã mở ra “Phụ trương văn chương”vào mỗi thứ bảy hằng tuần do Chủ bút Bùi Thế Mỹ chủ trì, bên cạnh “Phụ trươngthể thao” và “Phụ trương phụ nữ và nhi đồng”.

Phần văn học Phan Khôi góp với Đông Pháp thời báo kháđa dạng: sáng tác thơ (Dân quạ đình công // ĐPTB2/6/1928; Cái chết của con nhà nghèo // ĐPTB 21/7/1928),bình luận văn học (Cấm sách, sách cấm //ĐPTB 1/9/1928; Thivăn với thời đại // ĐPTB 6/10/1928; Vănchương và văn chương của nhà báo // ĐPTB 27/10/1928);khảo chứng (Cái dốt cuả triều Huế // ĐPTB 8/5/1928; Mộtbài vận văn rất có giá trị về lịch sử: “Hà Nội chánh khí ca” // ĐPTB 4/10/1928(;giới thiệu văn sĩ và văn chương nước ngoài (Cái thế lực của nhà văn hào // ĐPTB 5/6/1928[nói về L. Tolstoy]; Hồ Thích với Quốc dân đảng // ĐPTB 18/12/1928; Ông Eroshenko,thi nhân mù nước Nga // ĐPTB 19/5/1928); dịch thuậtvăn chương (dịch bài Quan về vườn // ĐPTB 5/5/1928của nhà thơ Pháp H. de Racan [1589-1670]; dịch một số tác phẩm của Eroshenko;dịch phần đầu tiểu thuyết Bá tước Monté Cristo của A.Dumas-père và cho đăng đều kỳ như một cuốn “tiểu thuyết chánh trị”)[3].Chính trên tờ Đông Pháp thời báo Phan Khôi đã bắt đầu thử việctrong một thể tài văn chương gắn liền với báo chí là thể tài hài đàm. Dưới bútdanh Tân Việt trong tiểu mục “Câu chuyện hằng ngày” do Chủ báo Diệp Văn Kỳ đặtra, Phan Khôi trở thành tay bút chính tìm tòi thể nghiệm dạng sáng tác mới mẻnày, và nhân đây xây dựng một “mặt nạ tác giả”[4]hay là một kiểu tác giả đặc thù mà sự tồn tại của nó gắn liền với kiểu giaotiếp gián cách giữa tác giả với độc giả thông qua kênh truyền thông báo chí.Vai trò Tân Việt trong “Câu chuyện hằng ngày” sẽ được Phan Khôi tiếp tục trêntờ Thần chung. Trong việc tìm tòi cách viết hài đàm, Phan Khôi chútrọng kinh nghiệm của hai nhà báo Pháp là Clément Vautel (1876-1954) và Charlesde la Fouchardière (1874-1946) trên các tờ Le JournalL'Oeuvre xuất bản ở Paris đương thời[5].

Về điểm đứt nối giữa hai tờ Đông Pháp thời báoThầnchung, nhân đây xin nêu đôi chi tiết thuộc “báo chí sử” Sài Gòn: theo khảosát của tôi, tờ Đông Pháp thời báo ngừng xuất bản không phảivì bị chính quyền đương thời đóng cửa như một vài học giả mô tả, mà sự thể đơngiản là chủ nhân của nó tự chấm dứt tờ báo này để ra tờ báo khác. Nói rõ hơn,tuy Diệp Văn Kỳ đã mua lại tờ báo này của Nguyễn Kim Đính nhưng ông vẫn xingiấy phép ra một tờ báo khác nữa. Đến khi có được giấy phép ra tờ Thầnchung rồi thì Diệp Văn Kỳ xử lý theo kiểu đổi tên: ông chấm dứt ĐôngPháp thời báo từ ngày 22/12/1928 (số báo 809) để rồi hai tuần sau, vẫntại toà soạn ấy ở góc đường Filippini và Espagne tại thành phố Sài Gòn, vẫn vớinguyên vẹn ban biên tập ấy, từ ngày 7/1/1929, báo mới với nhan đề Thầnchung (có tên bằng tiếng Pháp là La Cloche du Martin) ramắt số 1. Nói gọn lại thì Đông Pháp thời báo đã được đổi tênthành Thần chung, nhưng giấy phép của Đông Pháp thời báo thìlại được trả lại cho Nguyễn Kim Đính; ông này sau đó có lúc đánh tiếng ở báokhác rằng sẽ tục bản tờ báo cũ này của mình, nhưng việc ấy rốt cuộc không xảyra.

Chuyện bị chính quyền đóng cửa là chuyện thực đã xảyra với tờ Thần chung sau 15 tháng nó hoạt động rất hiệu quảtheo hướng báo chí đối lập. Lệnh đóng cửa tờ báo này ban ra từ phủ Toàn quyền ởngoài Bắc (22/3/1930) buộc tờ báo này ở Sài Gòn phải lập tức thi hành, và toàsoạn Thần chung đành phải dùng những tờ rơi dán lên tường nhàmột vài đường phố Sài Gòn để báo tin và nhân thể tỏ ý cảm ơn và từ giã bạn đọc[6].

Trong số bài vở Phan Khôi góp cho mặt báo Thần chung,dễ thấy nhất là việc duy trì mục “Câu chuyện hằng ngày” dưới bút danh Tân Việt. Tôi đếm thử, được 337 kỳ báo có bài của mục này trên tổng số 346 kỳ báo Thầnchung. Khi còn nằm trên Đông Pháp thời báo, vì báo chỉ ra 3 kỳmỗi tuần, nên “câu chuyện hằng ngay” vẫn ở tình trạng “cách nhật”. Nay nhậtbáo Thần chung ra tất cả các ngày thường trong tuần, trừ chủnhật, câu chuyện mà Tân Việt góp với người đọc báo mỗi ngày quả thực là “câuchuyện hằng ngày” với đủ loại nội dung có thể nói tới, từ các sự việc xảy rahằng ngày tại đô thị Sài Gòn và các miền trong nước đến các sự việc ở nướcngoài. Nhờ mục này mà nay đọc lại chúng ta biết các chuyện bầu cử hội đồng quảnhạt, chuyện thiếu nước, chuyện nghiện hút ở Sài Gòn, rồi chuyện thi hào Tagoređến thăm thành phố, chuyện phế đế Phổ Nghi, chuyện các quân phiệt bên Tàu,chuyện thi sắc đẹp bên Tây, v.v., và nổi bật lên là cái giọng riêng của tác giả,khi cười cợt khi nghiêm chỉnh.

Trên Thần chung Phan Khôi xuất hiệnvới họ tên thật của mình từ 3/10/1929 trong loạt 21 kỳ của tiểu luận Cáiảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta, sau đó trong những bài thảo luận vềdịch sách Phật học với nhà sư Thiện Chiếu. Ông cũng vẫn ký Chương Dân hoặc kýtắt C.D. trong những bài về ngôn ngữ, về thi văn. Một bút danh khác ông dùng ởmột vài bài đăng Thần chung là Khải Minh Tử, đây là bút danhông đã dùng cho một số bài báo chữ Hán ông viết cho tờ Quần báo củaHoa kiều ở Chợ Lớn[7].

Ngoài những bài ký tên hoặc bút danh rõ rệt, có lẽ Phan Khôicòn có nhiều bài ký tên toà soạn (Thần Chung, T.C.) hoặc không ký tên, ví dụnói về bút chiến, về vùng đất Tây Nguyên, về luận lý học, về thời sự trongnước, thời cuộc Trung Hoa, v.v...Ta cũng có thể dự đoán rằng trong những loạicông việc mà báo Thần chung tổ chức như cuộc thi quốc sử, chắchẳn có vai trò của Phan Khôi. Nhìn vào 30 bản tóm tắt sự tích và công trạng 30nhân vật trong sử Việt (mà Thần chung lần lượt đăng tải mỗibản sự tích đến 2 lần cho độc giả đọc để biết mà tham gia trả lời các câu hỏi),– ta có thể dự đoán là có bàn tay Phan Khôi tham gia soạn thảo.

Giữa năm 1929, Phan Khôi tham gia từ đầu vào một tờ tuần báomà tên gọi của nó sẽ được nhắc nhở nhiều về sau như một thành công rất đáng kểcủa báo chí tiếng Việt những năm 1930: tuần báo Phụ nữ tân văn. Đốivới cơ quan tư nhân này, Phan Khôi là một trong những người gắn bó đến mức đượcgọi là “đứng mũi chịu sào”[8]cùng với Đào Trinh Nhất, nhưng nếu Đào Trinh Nhất thường đảm nhận vai trò chủbút thì Phan Khôi trước sau chỉ giữ vai trò một cộng tác viên. Lượng bài viếtcủa ông đăng trên tuần báo này là khá lớn: khoảng trên 100 bài lớn nhỏ (nhiềubài thực chất là những chuyên mục kéo dài hàng chục kỳ) trong tổng số 273 kỳxuất bản tuần báo này từ 2/5/1929 đến 21/4/1935.

Trong sự đa dạng của các đề tài được đề cập thì nổi bật vẫnlà xoay quanh đề tài về giới nữ với đủ cung bậc loại hình: nghị luận xã hội,khảo luận lịch sử, nghiên cứu văn học, sáng tác thơ văn. Việc Phan Khôi và cáctác giả khác cùng thời ông đề cập vấn đề phụ nữ, theo nhận xét của tôi, khôngđơn giản là việc kiếm đề tài để viết cho hợp với nhãn một tờ báo, mà thực sự làviệc triển khai đường lối duy tân vào thực tế đời sống. Hoạt động báo chí đươngthời cho thấy không phải chỉ một nhóm làm tờ Phụ nữ tân văn màcòn nhiều nhóm khác nhận ra đề tài phụ nữ như một lối vào thuận lợi để tác độngđến xã hội, tạo ra những chuyển biến trong nếp sống. Trong các bài viết củaPhan Khôi, chủ trương giải phóng phụ nữ, giải phóng thế hệ trẻ khỏi sự áp chếcủa cái khung đại gia đình trung cổ được tác giả kiên trì theo đuổi bằng nhữnglý lẽ thuyết phục; có thể hình dung điều đó qua nhan đề các bài viết (ViệtNam phụ nữ liệt truyện // PNTV 2/5/1929;13/6; 4/7; 1/8; 8/8; 15/8; 12/9/1929; Tơ hồng nguyệt lão vớihôn nhân tự do // PNTV 12/9/1929; Chữ trinh:cái tiết với cái nết // PNTV 19/9/1929; Luậnvề phụ nữ tự sát // PNTV 26/9/1929; Chuyện bàcố tôi (Một cái đơn kiện cái chế độ gia đình An Nam) // PNTV 17/10/1929; Nữcông // PNTV 24/10/1929; Hoàng đế với phụ nữ // PNTV 9/1/1930; Lạihoàng đế với phụ nữ (Chuyện một bà hoàng hậu vì mắc oan mà bị tử hình)// PNTV 1/5/1930; Đàn bà mới của một nước mới Thổ NhĩKỳ // PNTV 8/5; 15/5/1930; Thân oan cho Võ Hậu // PNTV 22/5/1930; Giađình ở xứ ta nay đã thành ra vấn đề rồi // PNTV 21/5/1931; Cáichế độ gia đình nước ta đem gióng với luân lý Khổng Mạnh // PNTV 4/6/1931; Sựlập thân của thanh niên nam nữ đời nay // PNTV 18/6/1931; Lạinói về tam cang với ngũ luân // PNTV 2/7/1931; Tốngnho với phụ nữ // PNTV 13/8/1931; Một cái hại củachế độ đại gia đình: bà gia với nàng dâu // PNTV 20/8/1931; Vấnđề cải cách cho phụ nữ // PNTV 28/1/1932; Vấnđề phụ nữ giải phóng với nhân sinh quan // PNTV 7/7;21/7/1932; Con có vợ rồi có nên ở chung với cha mẹ chăng? // PNTV 14/7/1932; Thanhniên với tổ quốc // PNTV 13/10/1932; Câuchuyện lấy vợ đầm // PNTV 6/12/1934(...Ơ' khía cạnhvăn học, Phan Khôi đã nhân tính chuyên đề về giới của tờ tuần báo này để thửnêu các khía cạnh: văn học của các tác gia phụ nữ (Về văn học của phụ nữViệt Nam // PNTV 2/5/1929; Văn học của phụ nữ nướcTàu về thời kỳ toàn thịnh // PNTV 2/5/1929), và vănhọc về đề tài phụ nữ (Văn học với nữ tánh // PNTV 9/5/1929; Lạinói về vấn đề văn học với nữ tánh // PNTV 6/6/1929; Cáitánh ghen cùng dật sự thi văn bởi nó mà ra // PNTV 23/5/1929; Theotục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta // PNTV [11kỳ] từ 30/5 đến 29/8/1929, v.v...).

Một loạt bài khác, Phan Khôi đã làm cho tờ Phụ nữtân văn nổi tiếng, được cả những độc giả có học vấn cao tìm đọc, đó làloạt bài thảo luận về tư tưởng học thuật. Được khởi lên từ một vài bài ông đềnghị trao đổi hoặc chất vấn về nội dung học thuật và về học phong (Đọc cuốn Nhogiáo của ông Trần Trọng Kim // PNTV 29/5/1930; Cảnhcáo các nhà học phiệt // PNTV 24/7/1930), Phan Khôiđã khiến những cây bút hàng đầu của học thuật đương thời như Trần Trọng Kim,Phạm Quỳnh,... lên tiếng trên tuần báo Phụ nữ tân văn phúc đápvà thảo luận về những vấn đề ông nêu ra. Cuộc tranh biện giữa những đầu óc uyênthâm không dễ cho bất kỳ ai học vấn nông cạn có thể tham dự, nhưng nó vẫn đượcđông đảo người đọc chờ đợi có lẽ vì đấy là dịp khá hiếm hoi để lắng nghe nhữngngười hiểu biết nhất trong nước bàn luận về những điều không hề dễ hiểu như cáckhái niệm và phạm trù của Nho giáo, nhận định về hoạt động tư tưởng văn hoá ởViệt Nam, về học phong của giới học giả,...Không khí tranh biện nghiêm túc màkhông hề nhiễm thói giả dối hàn lâm kinh viện của những thảo luận này khiến tacó thể nghĩ rằng đây là những thời khắc thăng hoa không dễ lặp lại trong hoạtđộng tư tưởng học thuật ở Việt Nam. Có thể chính không khí ấy cũng đã hỗ trợnâng bước cho Phan Khôi, khiến ông minh mẫn khác thường; điều này không chỉ bộclộ qua việc không về hùa với người anh rể là Lê Dư trong chuyện “nước ta cóquốc học”, mà còn thể hiện ở khả năng nhận định chính xác nhiều vấn đề lịch sử vàlịch sử tư tưởng ở tầm xa: Trên lịch sử nước ta không cóchế độ phong kiến (PNTV 29/11/1934), Thánh hiền ta đời xưachưa hề có tư tưởng dân chủ (PNTV 13/12/1934).

Trên Phụ nữ tân văn, Phan Khôi, như một ngườichuyên nghiệp sống bằng ngòi bút, vẫn đóng kiêm nhiệm nhiều vai trò: vai tròdịch giả (ví dụ trích dịch Tư Mã Thiên, Tư Mã Dung, Hàn Dũ, v.v...), vai trònhà ngôn ngữ thực hành với nhiều loại việc, từ việc đề xuất “viết chữ quốc ngữcho đúng, dùng danh từ cho trúng”(PNTV 12/6/1930), “đính chánh lạicách xưng tên của người Việt Nam”(PNTV 26/6/1930), cảnh tỉnh đồngbào đừng thổi phồng khác biệt phương ngữ mà vô tình chia rẽ dân tộc (Tiếnghay văn Việt Nam cũng chỉ có một mà thôi // PNTV 11/6/1931),phản đối chủ trương dạy tiểu học bằng chữ nho (PNTV 24/3/1932),... Ôngcũng đảm nhận vai trò người sửa văn, dọn vườn văn mà ông cao hứng tự phong là “vaingự sử trên đàn văn”. Cũng có thể thấy ông trong vai trò người giúp việc lấpcác khoảng trống cho toà soạn bằng những mẩu “tạp trở” về đủ thứ chuyện cổ kimđông tây. Ông vừa thử vai hương sư dạy cách làm văn quốc ngữ (tập bài hướngdẫn Phép làm văn của ông đăng Phụ nữ tân văn [từ23/10 đến 30/11/1930] đến hết bài thứ tư thì dừng lại), vừa lặp lại vai trò “thàyđồ” dạy chữ nho (tập bài giảng nhan đề Hán văn độc tu [phụ đềtiếng Pháp là Chinois sans maitre] của ông được báo Đuốcnhà Nam in và phát hành như một phụ trương trước khi đăng trên Phụnữ tân văn liền trong 20 kỳ, từ 18/8 đến 29/12/1932, sau nữaPhan Khôi cho đăng lại trên Sông Hương, 1936-37).

Ơ' phương diện thuần văn học, bên cạnh loạt bài chuyên vềvăn học của tác gia phụ nữ và văn học về đề tài phụ nữ như đã nêu trên, ở Phụnữ tân văn, Phan Khôi còn có những bài mang tính khái quát lý thuyết về thểloại (Giới thiệu lối văn phê bình nhân vật // PNTV 30/7/1931; Mộtlối văn mà xứ ta chưa có: nhật ký // PNTV 23/6/1932; Sựnghị luận sai lầm bởi dùng chủ quan // PNTV 15/9/1932; Cáiđịa vị khôi hài trên đàn văn // PNTV 3/11/1932; Sửvới tiểu thuyết // PNTV 1/12/1932; Lối vănhọc của bình dân // PNTV 15/12/1932), về văn chươngvà nghề văn nói chung (Một ít nghiên cứu văn học về thần mùa xuân // PNTV 4/2/1932; Sựdùng điển trong thơ văn và sự chú thích // PNTV 18/8/1932; Cáibịnh ăn cắp của Tàu // PNTV 1/9/1932; Văn họcchữ Hán của nước ta // PNTV 22/9/1932; Sáchtiếu lâm đời xưa // PNTV 22/12/1932).

Tất nhiên trong số đó ta không thể quên bài báo Mộtlối thơ mới trình chánh giữa làng thơ (PNTV 10/3/1932),bài báo được coi như lời phát động cho phong trào thơ mới tiếng Việt (1932-45),mở ra một cuộc cách tân sẽ đưa tới thành tựu lớn nhất trong thơ Việt Nam thế kỷXX. Xin nhắc lại một cảm tưởng trong hồi ức: ở miền Bắc sau suốt ba bốn chụcnăm tên tuổi Phan Khôi bị coi là nguy hiểm nên bị quên lãng, khi kỷ niệm 60 nămphong trào thơ mới, tức là vào năm 1992, tên tuổi Phan Khôi chỉ được nhắc lạimột cách dè dặt, như thể ông chỉ dính dáng một cách ngẫu nhiên tới phong tràocách tân văn học này. Thế nhưng nếu tìm hiểu lại, ta sẽ thấy vai trò Phan Khôigắn với phong trào này là không hề ngẫu nhiên. Hồi những năm 1970 ở Sài Gòn,nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh[9]đã nêu những dấu hiệu cho thấy kiểm duyệt thực dân có vẻ như đã ngửi ra mùi “duytân” ,”cải lương”trong những lời Phan Khôi kêu gọi đổi mới thi ca. Đọc lại mộtcách tương đối hệ thống loạt bài Phan Khôi đăng Phụ nữ tân văn ởSài Gòn những năm 1929-1932, chúng ta sẽ có thể thấy Phan Khôi như một trongnhững cây bút hàng đầu đã tạo cơ sở và chuẩn bị về nhiều mặt cho những thay đổitrong văn hoá, học thuật và văn chương của người Việt những năm 1930-40, trongđó có phong trào thơ mới. Tôi tin rằng đã và sẽ có nhiều nhà nghiên cứu văn họcsử và văn hoá sử Việt Nam thấy nhận định này là hữu lý.

Ngoài chuyện bài vở đăng báo, Phan Khôi còn tham dự một sốhoạt động xã hội của báo này, ví dụ chấm thi để trao “học bổng phụ nữ” cho họcsinh đi du học sang Pháp.

Tờ báo thứ tư ở Sài Gòn mà Phan Khôi tham gia là nhậtbáo Trung lập.

Về tờ báo này, học giả Huỳnh Văn Tòng (2000, sđd.) xếp nóvào loại báo thiên về thông tin thương mại, “tự nhận mình không làm chính trị,đứng trung lập, có sao nói vậy, không thiên vị dân chúng hoặc chính quyền, cóchủ đích rõ rệt là thương mại nhưng ít nhiều vẫn theo khuôn khổ của chính quyềnthuộc địa” (sđd., tr.398). Tờ nhật báo này vốn là bản tiếng Việt của tờ báotiếng Pháp Impartial, cả hai được sáng lập bởi Henri deLachevrotière, một người Pháp lai Việt, xuất thân cai thợ, sau tiến thân vàochính trường, lên đến chức chủ tịch Hội đồng quản hạt Nam Kỳ; khoảng 1925-26,cả hai tờ này được bán đứt cho tập đoàn tài phiệt của Octave Homberg (theoHuỳnh Văn Tòng, sđd., tr.411). Có những thời kỳ, Trung lập báo bịcác đồng nghiệp vận động tẩy chay, do việc báo này hoặc người chủ trì nó làNguyễn Phú Khai tố giác phong trào cấp tiến, ngăn cản các hoạt động tưởng niệmPhan Chu Trinh, ngăn cản thanh niên Sài Gòn tổ chức đón rước Bùi Quang Chiêu duhọc Pháp trở về...Chính Phan Khôi dưới bút danh Tân Việt, Bùi Thế Mỹ dưới bútdanh Phiêu Linh Tử trên Đông Pháp thời báo và Thầnchung từng không ít lần châm chọc Trung lập.

Vậy mà tới giữa năm 1930, cả Phan Khôi lẫn Bùi Thế Mỹ lạiđến với tờ Trung lập. Có điều gì xảy ra đây?

Trước tiên phải kể tai nạn đột ngột xảy ra với tờ Thầnchung, việc tờ này bị đóng cửa dẫn đến sự chia lìa của nhóm nhà báo trẻ cấptiến từng quần tụ nhau quanh tờ báo này. Chủ nhiệm Diệp Văn Kỳ vẫn còn là chủnhà in Bảo Tồn, lại hành nghề luật sư; chủ bút Nguyễn Văn Bá thì sang làm chủbút Công luận báo nhưng lúc làm lúc bỏ, vì khi nào ông này đểcho ngòi bút ngả theo ông chủ tờ báo là Jules Haag thì liền bị các đồng nghiệpngười Việt chế nhạo; rút cuộc đến 1932 thì hai ông chủ cũ của Thầnchung trở thành hai ông chủ mới của tờ Công luận đãđổi chủ. Đào Trinh Nhất sang làm chủ bút Phụ nữ tân văn rồilàm chủ bút Đuốc nhà Nam, Ngô Tất Tố trở về Bắc với các tờ báo ở HàNội. Hai cây bút quê Quảng Nam là Bùi Thế Mỹ và Phan Khôi thì bước sang Trunglập.

Khi khảo về quan hệ của các nhóm tài phiệt với báo chí ĐôngDương đương thời thuộc Pháp, nhà nghiên cứu Huỳnh Văn Tòng có đưa ra ví dụ nhómtài phiệt Octave Homberg mua các tờ ImpartialTrunglập rồi về sau bỏ rơi khi nhà tài phiệt này trở về Pháp kinh doanh vàbước vào chính trường; sự “bỏ rơi” này được nhà nghiên cứu xem là nguyên nhândẫn đến chỗ tờ Trung lập thua lỗ và phải đóng cửa vào năm 1933(sđd, tr.409-413). Từ sự tìm hiểu của mình, tôi cho rằng nếu sự “bỏ rơi” kia làsự thực thì vẫn cần tìm hiểu thêm về hoạt động của giới quản trị và kinh doanhbáo chí người Việt đã tiếp thu và duy trì các tờ báo ấy, – chính điều này tạora diện mạo cụ thể của những tờ báo đã đổi chủ; và đây là trường hợp của cảtờ Trung lập lẫn tờ Công luận ở Sài Gòn trongnhững năm 1930.

Về trường hợp tờ Trung lập. Từ 13/8/1929, vaitrò Tổng lý (directeur propriétaire) Trung lập báo chuyểntừ Nguyễn Phú Khai sang Trần Thiện Quý tự Tôn Hiền. Những điều được toà soạnthông tin trên mặt báo và những biến chuyển thể hiện qua tin tức bài vở đăng racho thấy Trần Thiện Quý đã mua lại tờ báo này và đổi nó thành tờ báo khác, cókhuynh hướng dân tộc rõ rệt so với tờ báo cũ tuy vẫn mang tên như cũ[10].Chẵn một năm sau ngày 2/5/1929 (ngày khai sinh tuần báo Phụ nữ tân văn),báo giới Sài Gòn lại nhấn vào cái ngày đáng nhớ này bằng một việc mà họ cho làcũng sẽ đáng nhớ khác nữa, ấy là việc đúng ngày 2/5/1930 chính thức ra mắttờ Trung lập đổi mới, tuy không ghi chú “bộ mới” hay “tục bản”,không đánh số lại, chỉ khai trương một manchette mới (chữ “trung lập” màu đỏvới các nét cách điệu hình thân và cành lá thông) và một bộ biên tập mới, doBùi Thế Mỹ làm chủ bút (rédacteur en chef). Phan Khôi vẫn giữ nguyên tắc riêngcủa ông là chỉ cộng tác viết bài chứ không ở trong toà soạn, tuy có lúc bài ôngviết được đăng với tên ký Trung Lập tức là ký tên toà soạn.

Lượng bài Phan Khôi viết và đăng Trung lập cólẽ là lớn nhất so với lượng bài của ông đăng bất cứ tờ nào trong số ba tờ báoSài Gòn đã nêu trên. Trước hết là mục hài đàm “Những điều nghethấy” mà toà soạn dành riêng cho ông viết với bút danh Thông Reo (10ngày đầu ký là Tha Sơn). Từ 2/5/1930 đến 30/5/1933, ngày Trung lập bịđóng cửa, Phan Khôi đã viết trên 600 bài cho mục “Những điều nghe thấy”.

Ở trên nhân nói về chuyện Phan Khôi vào vai Tân Việttrong Câu chuyện hằng ngàyĐông Phápthời báoThần chung, tôi có dẫn khái niệm “mặt nạ tácgiả”, một khái niệm dầu sao cũng mang dấu tư duy Tây phương, trỏ một thứ “thipháp” của cái “tôi” trong vai lệch ở tản văn; tiếp đây xin thuật thêm một sựviệc thực mà hoá ra lại liên quan đến khái niệm ấy. Đó là từ giữa năm 1932, saukhi “Hội chợ Phụ nữ” ở Sài Gòn do báo Phụ nữ tân văn và hộiDục anh Sài Gòn đồng tổ chức kết thúc, những lời phàn nàn về một vài xử sựkhông hay của Nguyễn Đức Nhuận (chủ báo Phụ nữ tân văn) đã từ bé xéra to, lời qua tiếng lại đến mức đưa nhau ra toà. Một nửa báo giới Sài Gòn doTổng lý Trung lập Trần Thiện Quý và Chủ nhiệm Sàithành Bút Trà dẫn đầu hăng hái lên án vợ chồng chủ báo Phụ nữtân văn; còn vợ chồng chủ báo ấy thì đưa đơn ra toà kiện hai tờ SàithànhTrung lập về tội phỉ báng. Tình thế ấy khiếnBùi Thế Mỹ, – người lên tiếng bênh vực chủ báo Phụ nữ tân văn lúcsự việc mới phát lộ, – phải từ chức chủ bút Trung lập ra đi.Phan Khôi được tiếng là người thân thiết với chủ báo Phụ nữ tânvăn, cũng không còn ký tên mình đăng bài trên Trung lập nữa.Trên vài tờ báo khác lúc đó đã thấy đăng những ý kiến trách Trần Thiện Quý đãđể cho cả Phan Khôi lẫn Bùi Thế Mỹ bỏ Trung lập ra đi. Thếnhưng Thông Reo với chuyên mục “Những điều nghe thấy” thì vẫn xuất hiệnđều đặn trên chính tờ Trung lập cho đến tận số cuối cùng,trước khi báo này đột nhiên bị cấm; và đáng lưu ý là Thông Reo cũng có nhữngbài đồng tình với phe nhà báo lên án chủ nhân Phụ nữ tân văn là“con buôn hám lợi”. Vậy là chính nhờ “mặt nạ tác giả” đó, trang viết của PhanKhôi vẫn có thể xuất hiện ở những tờ báo mà tình thế và thời điểm khiến họ tênthật (vốn đi liền với nhân thân thật) của ông không thể hoặc không nên xuấthiện (Xin nói thêm: chuyện “mặt nạ tác giả” nói ở đây là chuyện nghề nghiệp hơnlà chuyện đạo đức).

Về văn chính luận, một việc rất đáng kể là chỉ hơn một thángtừ ngày ra tờ Trung lập đổi mới, Phan Khôi đã khởi ra cuộc bútchiến giữa hai tờ Trung lậpĐuốc nhà Nam xoayquanh thái độ đối với các sự biến vừa xảy ra lúc đó ở Nam Kỳ (nông dân biểutình bị đàn áp đổ máu, các nhân vật hàng đầu của đảng Lập hiến dấu mặt imlặng...). Các bài viết tuy ký Trung Lập nhưng, như Phan Khôi sau đó ít lâu sẽnói rõ, tất cả đều do một tay bút ông viết ra. Ông đã đi từ việc bình luận vềthái độ của những người được coi là làm chính trị (là nghị viên hội đồng quảnhạt hoặc hội đồng thành phố, tham gia một đảng được gọi là đảng Lập hiến...)trước những sự biến liên quan đến vận mệnh dân chúng (bắt đầu từ bài Ýkiến Trung lập: Phải nói minh bạch // TL 20/6/1930,qua một loạt bài: Trung lập xin nói cho Đuốc nhà Nam nghe thế nào làcái nhã độ quân tử ?// TL 21/6/1930; Trung lập lại nói choĐuốc nhà Nam nghe: Theo cái nhã độ quân tử, hễ có lỗi thì phải chịu // TL 23/6/1930; Sựkhởi hấn giữa Đuốc nhà Nam và Trung lập nếu trở thành cuộc bút chiến thì phảithế nào ? // TL 24/6/1930; 4 bài nhỏ: Ai nói dối ?;Bây giờ chúng tôi mới biết cái văn và cái người của ông Nguyễn Phan Long; Trunglập giành lại cái nhân cách cho quốc dân dưới bàn chưn kẻ vô lễ; “Kiến hiền tưtề yên” đều in trên Trung lập ngày 25/6/1930, v.v…đến loạt bài Về các cuộc biểu tình ở Nam Kỳ vừa rồi [kỳ I - IV] từ26/6/1930 đến 30/6/1930), chuyển sang bình luận về các vấn đề của đảng Lập hiếnNam Kỳ (Nói về đảng Lập hiến ở Nam Kỳ, từ kỳ I, 2/7/1930, đến kỳ XIII,25/7/1930, với những tiểu mục từng kỳ như: Cái chủ nghĩa của đảng Lậphiến; Đảng Lập hiến có thế lực mà không biết dùng; Cái sai lầm của đảng ấytrong đường chánh trị; Đảng viên và cơ quan của đảng ấy; Đảng Lập hiến vớithanh niên; Hiệp quần với phân đảng; Y' kiến chúng tôi về đảng Lậphiến nay sắp sau,...). Đó là những bình luận xã hội chính trị mà về nộidung thì những người nghiên cứu lịch sử hiện đại có lẽ có thẩm quyền đánh giáhơn những người nghiên cứu về văn học sử hiện đại. Chỉ xin lưu ý rằng năm 1929,chính Phan Khôi trên báo Thần chung đã có bài luận về bútchiến (không ký tên tác giả, nhưng tôi đoán là do Phan Khôi viết); có thể nghĩrằng ông cũng mong có dịp thực hiện một cuộc bút chiến đúng như ông hình dungtrong ý niệm. Đối thủ của ngòi bút ông lần này là chủ nhiệm Đuốc nhàNam Nguyễn Phan Long. Những gì diễn ra có lẽ không thật giống với hìnhdung thuần ý niệm, tuy Phan Khôi giữ nguyên tắc của mình. Khi Nguyễn Phan Longtrả đũa bằng thủ đoạn bôi nhọ cá nhân người viết bút chiến với báo mình (chođăng trên báo Đuốc nhà Nam 12/7/1930 một bài bình thơ ký tênĐức Kỉnh, bàn về bài Viếng mộ ông Lê Chất của Phan Khôi rồiviết rằng “người mình có cái tật “vì người mà bỏ lời nói” nên chi bài thi nầyhay thật nhưng không mấy ai truyền tụng đến”, tức là mượn một câu ở sách Luậnngữ để thoá mạ nhân cách Phan Khôi), Phan Khôi đã thẳng thắn công khainguồn dư luận mờ ám mang tính vu cáo vẫn lan truyền bằng rỉ tai trong giới vềmình (theo đó người ta đồn ông là mật thám của khâm sứ Trung Kỳ), nhân đây PhanKhôi buộc tội Nguyễn Phan Long khơi ra chuyện vô bằng cứ đó là “đã bôi lọ cáitên của ông trong làng báo”, “làm xấu trong trường ngôn luận” (Vài lời hỏiông Nguyễn Phan Long, chủ nhiệm “Đuốc nhà Nam” // TL 19/7/1930; Mộtsự buồn trong báo giới // TL 21/7; 24/7; 1/8/1930).

Xin kể thêm một bài bình luận cũng rất đáng kể nữa là bàibáo đăng 4 kỳ nhan đề Vấn đề cải cách (TL 9/8;12/8; 13/8; 18/8/1930), trong đó Phan Khôi nêu kinh nghiệm Nhật Bản và TrungHoa để khẳng định ý kiến mình: “muốn duy tân cải cách thì phải bắt từ học thuậttư tưởng mà duy tân cải cách trước”; đó là một chủ kiến có không ít căn cứ.

Về phương diện văn học, một điều khá nổi bật là khi hai ôngBùi Thế Mỹ và Phan Khôi làm với Đông Pháp thời báo trong năm1929 đã ra được “Phụ trương văn chương”, thì đến khi hai ông này làm với Trunglập, cũng ra được “Phụ trương văn chương” vào mỗi thứ bảy hằng tuần (khởiđầu vào đúng ngày 2/5/1931, như lặp lại điểm thời gian đáng nhớ của giới làmbáo ở Sài Gòn), cũng do Bùi Thế Mỹ là chủ bút; từ 2/5/1931 đến 29/5/1933 rađược cả thảy 104 kỳ. Ở mỗi kỳ, ngoài những mục như “Văn uyển” đăng sáng tácthơ, mục “Giấy thừa mực vụn” đăng tạp văn hoặc chuyện làng văn, còn có mộtlượng khá lớn bài vở trong đó bước đầu giới thiệu những khái quát văn học sửViệt Nam (ví dụ bài Ngôn ngữ và văn chương Việt Nam củaBùi Kỷ từ PTVC số 8: 20/6/1931, đến PTVC số 13: 25/7/1931), nêu các vấn đề mangtính lý luận văn nghệ, giới thiệu văn chương nước ngoài, bàn thảo để nhận diệnnhững hiện tượng như “đạo văn” (Cao Minh Chiếm PTVC số 41: 13/2/1932, “tố giáccái án đạo văn” nhưng lầm lẫn một loạt trường hợp thuộc loại phóng tác của HồBiểu Chánh và nhiều tác giả khác; Mai Lan Quế PTVC số 47: 26/3/1932 nhận thấyhọ Cao nghiệt ngã vô lý, đề nghị Phan Khôi giải giúp; Phan Khôi PTVC số 48:2/4/1932 giải rõ những trường hợp ấy không phải là “đạo văn”), hiện tượng nhàvăn bị cáo giác là có những sáng tác gây tổn thương phong hoá[11],v.v...Chính ở “Phụ trương văn chương” số 2 (TL 9/5/1931) một tácgiả ký T.S. đã nêu vấn đề lý thuyết về “nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuậtvị nhân sinh” (chứ không phải đợi đến Hải Triều với những cuộc tranh luận saunày vào năm 1936). Nhân nói về phụ trương này, phải kể đến sự đóng góp của mộtcây bút khác cũng đến từ xứ Quảng là Phan Thứ Khanh, người đã có khá nhiều bàigiới thiệu các nội dung lý thuyết mới về văn nghệ như: văn học và quốc dântính, văn học tiến hoá với sự biến thiên của xã hội, văn học với cách mạng, vănhọc bình dân, khái niệm “trào lưu”, về chủ nghĩa tả chân của Zola và Flaubert,nguyên lai tiểu thuyết Tàu và tiểu thuyết thời Đường, xuất xứ các bộ Thuỷhử, Tam quốc, Tây du, lược qua về bộ Kim Bình Mai,v.v...Đây cũng là một trong số những tác giả đang bị quên lãng cả ở Sài Gòn đâylẫn ở quê gốc của mình.

Phần văn học Phan Khôi góp mặt với Trung lập cũnggần với các bài loại này ông đăng Phụ nữ tân văn. Thường thì mộtbài của ông nếu không đăng trên tờ này thì sẽ đăng trên tờ kia và ngược lại, vàcũng có trường hợp đăng đồng thời cả trên hai tờ đó (thậm chí nhiều tờ kháccũng đăng lại), chẳng hạn những bài ông thảo luận với Trần Trọng Kim, PhạmQuỳnh, Huỳnh Thúc Kháng, những bài ông tranh luận về “quốc học” với Lê Dư,v.v.... Riêng ở Trung lập Phan Khôi còn có những bài về ngônngữ, về thể loại văn chương; ông tham gia cuộc thảo luận về văn nghị luận củabáo chí ngoài Bắc, bênh vực lối văn Hoàng Tích Chu (khác với Ngô Tất Tố làngười chê bai lối văn này), nhận xét chỗ được và chưa được ở bộ ViệtNam tân tự điển của hội Khai trí Tiến đức, v.v...Ông khôngchỉ thường xuyên có bài về thời sự nước Tàu mà còn có nhiều bài dịch thuật,giới thiệu văn hoá Trung Hoa, đáng kể nhất là bài giới thiệu Thương vụ ấn thưquán ở Thượng Hải (PTVC số 36: 31/12/1931; số 37: 9/1/1932). “Phụ trương vănchương” của báo Trung lập cũng đăng nhiều bài Phan Khôi tríchdịch Sử ký của Tư Mã Thiên, Tùy Viên thi thoại củaViên Mai, v.v...Nhân đây cũng cần nhắc lại rằng hầu hết các bài trong mục “Nhữngđiều nghe thấy” chính là một dạng sáng tác của văn chương báo chí; không cóbáo chí thì không có đất sống cho loại tản văn này; ngoài ra, trong khá nhiềuloại để tài mà các bài trong mục này đề cập cũng có nhiều bài về văn chươngnghệ thuật, khá nhiều bài bàn đến văn chương Truyện Kiều, đến các sáng tácđương thời.

Ngoài 4 tờ báo tiếng Việt kể trên, Phan Khôi còn cộng tácvới một hoặc một vài tờ báo chữ Hán của Hoa kiều ở Chợ Lớn. Một trường hợp đãbiết rõ là tờ Quần báo hồi đầu năm 1929 đã đăng bài Phan Khôichỉ ra chỗ sai của báo ấy khi đăng một bài thơ, nói là của tác gia Trung HoaNgô Bội Phu nhưng thực ra là thơ của tác gia Việt Nam là vua Thành Thái ;sau đó báo đăng liền 2 kỳ bài Chính trị gia khẩu đầu chi Khổng Tử củaông; ở cả hai bài ông đều ký là Khải Minh Tử. Sau này, vào năm 1939, trêntờ Tao đàn ở Hà Nội, Phan Khôi viết rằng khoảng 1928 ông từngđăng bài với bút danh Khải Minh Tử trên Hoa kiều nhật báo nóivề văn học chữ Hán của người Việt[12].Riêng về thông tin này hiện vẫn chưa có kiểm chứng trên tư liệu.

Trên đây là sơ lược về hai thời kỳ Phan Khôi tham gia báochí văn chương tại Sài Gòn. Giữa năm 1933, ông ra Bắc cộng tác với các tờ Thựcnghiệp dân báo, Phụ nữ thời đàm. Giữa năm 1934 ông vào Huế cộng tác vớitờ Tràng An, rồi sáng lập và điều hành tờ Sông Hương,tờ báo tư nhân đầu tiên mà ông là chủ trong đời mình. Năm 1937, sau khi nhượngtờ Sông Hương ở Huế này cho nhóm cộng sản của Phan Đăng Lưu,theo một nguồn tài liệu (Phan Cừ, Phan An, 1996, sđd), Phan Khôi lại vào SàiGòn, nhưng không biết ông có cộng tác với tờ báo nào tại đây hay không. Do đócũng chưa rõ ông có một thời kỳ thứ ba làm việc với văn chương báo chí Sài Gònnữa hay không? Tôi chưa tìm hiểu được kỹ điều này nhưng ngờ rằng không có.

3/ Trở lại điều nêu ở phần đầu bài này. Rõ ràng là Phan Khôicó thời gian làm báo viết văn tại Sài Gòn, tức là tại Nam Kỳ (nay ta dùng từ “NamBộ”). Hoạt động văn chương báo chí ấy của ông (ở đây chưa kể đến hoạt động vănchương báo chí của ông tại các nơi khác) chẳng những để lại dấu ấn tại đây màcòn có tiếng vang và ảnh hưởng đến tiến trình chung của văn học Việt Nam trênquy mô cả nước. Vậy thì, từ góc độ văn học sử, khi tập trung vào một quy mônhỏ, ở đây là quy mô vùng văn học Nam Bộ, các nhà nghiên cứu có nên tính đếnhoạt động của những “cây bút nhập cư” như Phan Khôi (và không chỉ có Phan Khôi)hay không? Nếu loại bỏ không kể đến những “cây bút nhập cư” đã đến, sống vàviết ở đây, thì đời sống văn học thực diễn ra ở đây có vì vậy mà trở nên nghèonàn hơn thực tế đã có hay không?

________________

Chú thích

[1] Phan Thị Nga: Lối tựhọc của những bực đàn anh nước ta: [kỳ 1] Ông Phan Khôi học chữ Tây vàlàm quen với cô Luận Lý // Hà Nội báo, Hà Nội,s. 10 (11 Mars 1936);

Phan Cừ&Phan An: Phan Khôi niên biểu //[trongsách] Chương Dân thi thoại (tái bản), Đà Nẵng 1996: Nxb. ĐàNẵng, tr.152-163.

[2]HuỳnhVăn Tòng: Báo chí Việt Nam từ khởi thuỷ đến 1945, Tp HCM: Nxb TPHCM, 2000, tr. 185.

[3]Chitiết hơn xin xem trong: Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1928 /Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn/, Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2003.

[4]Kháiniệm “mặt nạ tác giả” [maska avtorskaja] được một số học giả Nga định nghĩa nhưphương thức mà nhà văn dùng để che giấu nhân thân của mình nhằm tạo nên ở độcgiả cái hình ảnh một tác giả khác hẳn (so với dạng thực có); đây là thủ phápchính của mê hoặc (mistifikacija) trong văn chương (theo O.E. Osovsky, MaskaAvtorskaja / Mặt nạ tác giả / trong sách: Literaturnaja EnciklopedijaTerminov i ponjatij // A.N. Nikoljukin tổng chủ biên // Moskva: HPK “Intelvak”,2001, tr.511-512).

[5] Về hai nhà báo và nhà vănPháp này, mới đây dịch giả Trần Thiện Đạo từ Paris đã tra cứu và thông tin về,cho biết: Georges [chứ không phải Charles] de la Fouchardière (1874-1946): năm1916 đã cùng Gustave Téry sáng lập tờ L' oeuvre (Xây dựng),viết liên tục 15 năm những bài luận bàn thế sự với giọng hài hước hóm hỉnh, thuhút đủ loại độc giả; là cây bút có ảnh hưởng đến tận thế chiến 1939-45; ClémentVautel (1876-1954; tên thật Clément Vaulet; trong bút danh đảo let thành tel (:viết cho các báo ngày ở Paris như Le Matin, La Liberté...,đặc biệt giữ mục “Mon film” (Dưới mắt tôi) hằng ngày bàn luận thế sự bằng cáinhìn rất “phải lẽ” của một “francais moyen” (thường dân), được độc giả đươngthời hâm mộ; ngoài ra còn là tác giả một số tiểu thuyết; cũng là cây bút có ảnhhưởng đến tận thế chiến II. Xin chân thành cảm ơn dịch giả Trần Thiện Đạo vềnhững thông tin trên.

[6] Xem: Vương Lệ Thiên: Thỏchết động lòng chồn (Tại sao báo Thần chung bị cấm xuất bản?) // Trung lập,Sài Gòn, 27/3/1930; Phan Khôi: Có lẽ là điều sai lầm của những ngườitrí giả // Trung lập, Sài Gòn,10/5/1930.

[7]Chitiết hơn xin xem trong: Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1929 /Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn/, Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2004.

[8]Tin: ”Phụnữ tân văn” bị đóng cửa 5 tháng // Trung lập, 14/5/1931.

[9]BùiĐức Tịnh:Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới(1865-1932), [in lại có sửaso với bản in lần đầu 1975], Tp. HCM: Nxb. TP HCM, 1992, tr . 235

[10]Chitiết hơn xin xem: Tiểu dẫn [trong sách] Phan Khôi: Tác phẩm đăngbáo1930 / Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn/ Hà Nội: Nxb. Hội NhàVăn, 2005, tr.8-14.

[11]Xemthêm: Lại Nguyên Ân: Vài tư liệu về việc Vũ Trọng Phụng bị gọi ra toànăm 1932 // Tiền phong, 5/11/2005; Thế giới mới, s.660(7/11/2005).

[12]PhanKhôi: Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta // Tao đàn, Hà Nội,s.1, 1 Mars 1939, tr.13-18; s. 2, 16 Mars 1939, tr.107-114; dẫn theo Sưutập trọn bộ TAO ĐÀN 1939, / Nguyễn Ngọc Thiện và Lữ Huy Nguyên sưu tầm / HàNội: Nxb Văn học, 1998.