Nguồn gốc địa danh Hòa Lai ở tỉnh Ninh Thuận


Tháp Hòa Lai.


Ở tỉnh Ninh Thuận, hiện có hai ngọntháp Chăm đứng cạnh Quốc lộ I A, nhưng lạiđược gọi là Ba Tháp, bởi trong quá khứtại đây có ba ngôi tháp nhưng có một ngôi tháp đãbị sụp đổ nên mới có tên gọi nhưvậy! Giới khảo cổ gọi cụm tháp ấy làtháp Hòa Lai.

Trong bài viết “Nguồn gốc địa danh…”của Chế Vỹ Tân viết về địa danh HòaLai: “là một địa danh ở bắc Ninh Thuậnthường được gọi là Ba Tháp, thuộc xã TânHải, huyện Ninh Hải. Trên Quốc lộ số 1, dukhách bắt gặp hai ngọn tháp Chăm cổ kính tọalạc phía đông con đường, cách ranh giới KhánhHòa – Ninh Thuận khoảng 8 km (ngọn thứ ba đãbị đổ nát từ lâu). Nơi đây chính là HÒA LAI.Xưa kia địa danh này mang tên là BAL LAI (thủ đôđã điêu mất). Chính từ Bal Lai này đãđược phiên âm thành Hòa Lai” (1).

Hiện nay cụm tháp Hòa Lai thuộc thôn Ba Tháp, xãBắc Phong, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận.

Từ địa danh Thuận Lai đổi thànhHòa Lai

Trước năm 1888 vùng đất tỉnh NinhThuận hiện nay gọi là phủ Ninh Thuận, thuộctỉnh Bình Thuận.Tất cả các dịch trạm (trạmthông tin liên lạc) thuộc tỉnh Bình Thuậnđều bắt đầu bằng chữ “Thuận”.Dịch trạm đầu tiên trên đất tỉnh BìnhThuận tính từ phía bắc vào là Thuận Lai, ThuậnMai, Thuận Trinh, Thuận Lãng… Nằm giữa ranh giớiKhánh Hòa và Bình Thuận là dịch trạm Hòa Thuận (dịchtrạm nằm ở ranh giới giữa hai tỉnh thìlấy một từ trong tên của tỉnh này và mộttừ trong tên của tỉnh kia ghép lại. Ví dụdịch trạm giữa tỉnh Bình Định và Phú Yên là dịchtrạm Bình Phú; dịch trạm giữa tỉnh Phú Yên vàKhánh Hòa gọi là dịch trạm Phú Hòa; dịch trạmgiữa tỉnh Bình Thuận và Biên Hòa là dịch trạmThuận Biên …). Theo tác phẩm Hoàng Việt nhấtthống dư địa chí do Lê Quang Định soạnxong năm 1806 thì từ dịch trạm Hòa Thuận đikhoảng 4876 tầm (1 tầm= 2,12m, như vậykhoảng 10 km) là đến dịch trạm Thuận Lai: “đếnquán nghỉ trạm Thuận Lai, trước mặttrạm có quán nghỉ, khách đi đường có thểnghỉ lại” (chí quán cư Thuận Lai dịch.Trạm tiền hữu quán cư, hành nhân khả trú túc). Quakhỏi trạm Thuận Lai 1600 tầm (khoảng hơn 3km): “đường đi bằng phẳng, hai bên làrừng thưa, phía tây đều là ruộng cấy lúa,phía đông cóba tòa tháp cổ, tục gọi tháp Cao Miên, nayđã đổ nát (kỳ lộ bình thản,lưỡng bàng sơ lâm, lộ tây điền trù, lộđông hữu tam cổ tháp, tục danh Cao Miên tháp. Kimdĩ đồi hoại) (2).

Đại Nam nhất thống chí ghi chép vềtrạm Thuận Lai: “Ở thôn Nhơn Sơn huyện AnPhước, phía bắc đến trạm Hòa Quân tỉnhKhánh Hòa 43 dặm linh, phía nam đến trạm Thuận Mai20 dặm linh” (3)

Tác phẩm “Notes sur l’Annam I Le Bình Thuận” củaÉtienne Aymonier viết xong vào tháng 6 năm 1885 ghi chép vềtrạm Thuận Lai: “Enfin, la route atteint le seizième et derniertrạm du Bình Thuận,celui de Thuận Lai, situé dans ce couloirqui fait communiquer le Bình Thuận avec la province voisine du Khánh Hòa”(4) (Sau cùng, con đường đến đượctrạm thứ 16 và là trạm cuối cùng của BìnhThuận, tức là trạm Thuận Lai, nằm ở trongcon đường giao thông Bình Thuận với tỉnh bêncạnh của Khánh Hòa).

Trong tác phẩm Notes sur l’Annam II le Khánh Hòa cũngcủa Étienne Aymonier soạn xong vào tháng 12 năm 1885 đãghi chép về trạm Thuận Lai một cách rõ ràng: “Letrạm de Thuận Lai, le dernier relai de poste du Bình Thuậnque nous avons déjà vu en étudiant cette province, parait quelque peu disposepour une defense; ses maisons sont solides, élevées, couvertes de tuiles; ilest clos d’un mur d’enceinte en pierre que la route traverse, entrant par laporte du sud pour ressortir par celle du nord (5) (Trạm ThuậnLai, trạm cuối cùng của Bình Thuận mà chúng ta đãxem qua khi nghiên cứu về tỉnh này[ Ý của Aymoniernhắc tới tác phẩm Notes sur l’Annam I le Bình Thuận-TG], trạm ấy có vẻ như một nơi đểphòng vệ; những ngôi nhà của nó chắc chắn, caoráo, lợp ngói; nó được bao kín bằng một vòngtường đá mà con đường đi xuyên qua, vàobằng cửa phía nam, ra bằng cửa phía bắc).

Nếu tính từ bắc vào nam thì dịchtrạm Thuận Lai là dịch trạm đầu tiên trênđất Bình Thuận, nếu tính từ nam ra bắc thìdịch trạm Thuận Lai là dịch trạm thứ 16 vàcũng là dịch trạm cuối cùng trên đất BìnhThuận.

Tháng giêng năm Mậu Tý (1888): “phủ NinhThuận, nguyên vẫn lệ thuộc ở tỉnh BìnhThuận, nên trích ra cho lệ thuộc vào tỉnh Khánh Hòa(6).Các dịch trạm trên đất Khánh Hòa đềubắt đầu chữ “Hòa” như: Hòa Mã, Hòa Lãng, HòaHuỳnh, Hòa Cát, Hòa Thạnh, Hòa Tân, Hòa Do, Hòa Quân. Do lệthuộc vào tỉnh Khánh Hòa, cho nên các dịch trạmThuận Lai, Thuận Mai, Thuận Trinh, Thuận Lãng nằmtrên phần đất phủ Ninh Thuận đượcđổi chữ “Thuận” thành chữ “Hòa” cho giốngcác dịch trạm trên đất Khánh Hòa và dịchtrạm Thuận Lai được đổi thành Hòa Lai.Địadanh Hòa Lai bắt đầu xuất hiện từ đây.

Từ địa danh Hòa Lai đổi thành Ninh Lai

Dưới thời vua Minh Mạng, dân trạm HòaThuận (nằm ở ranh giới giữa Khánh Hòa và BìnhThuận) xiêu tán nên triều đình xóa bỏ trạm HòaThuận. Trong tác phẩm “De Qui Nhon en Cochinchine” của tácgiả J. Brien xuất bản năm 1893 (sau khi phủ NinhThuận nhập vào đất Khánh Hòa hơn 5 năm) chobiết là từ trạm Hòa Quân (Cam Ranh) đến trạmHòa Lai có chiều dài là 26,620 km và ông viết về trạmHòa Lai: “Le tram de Hòa Lai est très vaste, construit en briques, entouréd’un mur en pierres avec une cour dallée. C’est le plus beau de tous les relaisde trams de l’Annam” (Trạm Hòa Lai rất rộng, xâybằng gạch, được bao quanh bằng mộtbức tường đá với một cái sân lát gạch.Đó là cái trạm dừng đẹp nhất trong tấtcả các trạm của xứ An Nam).

Ông viết tiếp: “A trois kilomètres de Hòa Lai, ontrouve à gauche, sur le bord de la route, les ruines de trois tours chams,encore bien conservées et rappelant celles du Binh Đinh et de Nha Trang”(7) (Cách Hòa Lai 3 ki lô mét, người ta tìm thấy ở phíatrái, bên lề đường, phế tích 3 tháp Chàm, hãy còngiữ gìn kỹ, nhắc nhớ tới những cái[tháp]ở Bình Định và Nha Trang).

Tháng 3 năm Tân Sửu (1901) “Bắt đầuđặt đạo Ninh Thuận (trích phủ NinhThuận và huyện An Phước tỉnh Khánh Hòa lậpthành một đạo, lỵ sở đặt ởxứ Phan Rang) lấy Tri phủ Nguyễn Văn Thụythăng làm Quản Đạo” (8).

Do không còn trong phần đất Khánh Hòa nữavà được nâng lên thành đạo Ninh Thuận cho nênvào tháng 9 năm Tân Sửu (1901): “Đổi các dịchtrạm Hòa Lai, Hòa Mai, Hòa Trinh ở đạo Ninh Thuậnthành Ninh Lai, Ninh Mai, Ninh Trinh để có phân biệt” (9)

Như vậy địa danh Hòa Lai bắtđầu xuất hiện vào năm 1888 và tồn tạiđến thánh 9 năm Tân Sửu (1901) thì đượcđổi thành Ninh Lai. Vào thập kỷ cuối củathế kỷ XIX các nhà khảo cổ đã lấyđịa danh dịch trạm Hòa Lai đặt tên chocụm di tích Ba Tháp gần đó (cách dịch trạm Hòa Laikhoảng 3 km) nên mới có tên tháp Hòa Lai.

Địa danh Hòa Lai hoàn toàn có nguồn gốcmang yếu tố ngôn ngữ Việt chứ không hề cóchút yếu tố Chăm nào cả!

_____________

Chú thích:

  1. inrasara.com/2007/08/29/chế-vỹ-tan-nguồn-gốc-dịa-danh
  2. Lê Quang Định, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (Phan Đăng dịch và chú giải), Nxb Thuận Hóa, tr. 57; trang chữ Hán không phiên có phiên âm, trang 1660.
  3. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí tập 3, Nxb Thuận Hóa,tr. 147
  4. Étienne Aymonier,Notes sur l’Annam I le Bình Thuận, Saigon Imprimerie Coloniale 1885, page 32.
  5. Estienne Aymonier, Notes sur l’Annam II le Khánh Hòa, Saigon Imprimerie Coloniale 1886, page 14.
  6. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 9, Nxb Giáo dục, tr. 381.
  7. J.Brien, De Qui Nhơn en Cochinchine, Hanoi Imprimerie Typo- Lithographie F.-H. Scheneider, 1893, page 33.
  8. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên, Nxb Văn hóa- Văn nghệ, tr. 394.
  9. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên, Nxb Văn hóa- Văn nghệ, tr.405.