Đồng bằng sông Cửu Long qua vài nét văn hóa miệt vườn

“Nhà Bènước chảy chia hai

Aivề Gia Định, Đồng Nai thì về

 

I - SƠLƯỢC KHAI MỞ MIỀN ĐỒNG BẰNG SÔNGCỬU LONG

1 - Người ta nói “Miền” ĐồngBằng Sông Cửu Long để tách bạch mộtđịa phương, tuy rộng lớn, trên mộtphạm vi rộng lớn hơn, đó là “vùng”, như “vùng”Nam Thái Bình Dương, “vùng” Đông Nam Á, mà MiềnĐồng Bằng Sông Cửu Long chỉ là một “đơnvị” nằm trong vùng địa lý văn hóa Đông Nam Á .

Chúng ta ai cũng biết miền Nam ViệtNam chạy dài tận mũi Cà Mau thành hình theo bướcNam tiến của tiền nhơn .

Năm 1658, di thần nhà Minh, “Phản Thanhphục Minh”, với 3000 quân tinh nhuệ, với chiếnthuyền và võ trang hùng hậu, đến Thuận Hóađể xin được Chánh quyền Việt Nam giúp đỡ.Chúa Nguyễn, Hiền Vương, nghĩ nếu từchối và đuổi đi, thì đám tàn quân nầy vì cùnđường có thể đánh phá ta, nên tiếp đãiniềm nở, còn khoản đãi, phong chức và cho phép vàophía nam khẩn hoang, lập nghiệp ở Biên Hòa, Cù LaoPhố, và Định Tường với lời chỉ dẫn“đó là vùng đất mới của ta”.

Trần Thắng Tài và Dương NgạnĐịch là hai tướng nhà Minh chỉ huy lựclượng hải thuyền di tản về phươngnam với lòng mưu cầu phục Minh sau này .

Tướng Trần Thắng Tài vânglệnh Chúa Nguyễn dẩn một đoàn quân vớichiến thuyền đi về vùng Biên Hòa để khai phávà định cư lập nghiệp. Họ mở mangthương mãi và chỉ trong ít lâu biến Cù Lao Phốthành một trung tâm thương mãi trù phú . Đến khi TâySơn tiến đánh vào Nam, một phần dân cư ởđây di tản về Bến Nghé sanh sống . Họ chuyênthu mua và bán nông phẩm từ phía Định Tườngchở tới . Bến Nghé sau này trở thành ChợLớn và hoạt động kinh tế vẫn còn nằmtrong tay người Tàu .

Trong lúc đó, tướng Dương NgạnĐịch dẫn một đoàn quân kéo về ĐịnhTường định cư lập nghiệp. Cánh nầychuyên vê nông nghiệp . Họ lập ra chín nông trại,dần dần mở mang ra thành Vùng Đồng Bằng SôngCửu Long ngày nay .

2 - Người Việt Nam theo chơnngười Tàu tiếp tục bước Nam tiến vàthành lập Chánh quyền ở những nơi dân cưổn định đời sống . Nơi nào có Chánhquyền Việt Nam, nơi đó lập tứcđược hợp thức hóa trở thành lãnh thổcủa Việt Nam . Tức nước Việt Namđịnh hình . Sự kiện lịch sử này hoàn toànphù hợp với tinh thần công phàp ngày nay .

Người học sử có nhận xétđặc biệt về lịch sử lập quốccủa Việt Nam, không giống lịch sử lậpquốc của phần nhiều các quốc gia khác bởi“chính người Việt Nam từng bước lậpthành nước Việt Nam”. Chúng ta có thể mườngtượng lịch sử lập quốc Việt Nam nhưmột dòng nước từ trên vùng đất cao chảyloang ra vùng đất thấp . Nước chảyđến đâu thì đất thắm nước làđất của dòng nước ấy. Mà Việt Namcũng tắm mình trong dòng nước Nam Hải với cácquốc gia khác trong Vùng Đông Nam Á .

Đất trong Nam là đất của NhàNguyễn, nên khi Gia Long tẩu quốc, chạy vàoĐịnh Tường, Ba Giồng, được dân chúngmiền Nam khắp nơi niềm nở đón tiếp và phụcvụ nhà vua tận tình . Cũng vào thời gian ấy,Mạc Cữu từ Thái Lan qua, đặt chơn ở HàTiên, lập ra thương cảng, một thời buôn bánphồn thịnh . Sau nhiều lần bị Thái Lan và Cao Miên uy hiếp,Mạc Cữu chấp nhận thuần phục NhàNguyễn và được chúa Nguyễn phong chức quan,cai quản phần đất Hà Tiên để về saunầy nối liền với Rạch Giá . Và lãnh thổ NhàNguyễn từ đó chạy dài tận mũi Cà Mau .

II - TỔCHỨC ĐỊNH CƯ VÀ MIỀN ĐỊA LINH NHƠNKIỆT

1 - Chánh quyền địa phươngđược thiết lập xong liền bắt tay ngayvào việc lo tăng gia sản xuất lúa gạo, hoa màu,chăn nuôi gia súc, gia cầm, đánh cá, … để gópphần cải thiện đời sống dân chúng .

Cùng với hoạt động kinh tế,Chánh quyền còn quan tâm đến đời sống tinhthần của người dân, đứng ra lậpđền chùa, miếu mạo, tổ chức quan hôn, tang,tế trong dân chúng . Đồng thời, trườnghọc cũng xuất hiện để khai hóa dân trí con emtrong làng xã . Những người có học chữ nho, yhọc, được Chánh quyền cho phép dạy học,chữa bịnh cho dân chúng .

Đến đây, chúng ta nhận thấymột sự kiện xã hội rõ nét ở địaphương mới khai khẩn này, đó là người Tàuvà người Miên, vốn là chủ nhơn ở đây,chỉ chăm lo làm ăn, buôn bán, còn người Việt Namđến sau, lại quan tâm tổ chức xã hội theotrật tự Nhà Nguyễn . Vì thế mà trong quá trìnhlập quốc, ít khi xảy ra những cuộc tranhchấp về chủ quyền đất đai gay gắt. Người Tàu và người Miên mặc nhiên nhìn nhậnChánh quyền Nhà Nguyễn và người Việt là chủnhơn của phần đất này .

Cơ sở xã hội văn hóađược tổ chức như thế đã vữngchắc cho đến khi thực dân Pháp đến xâmchiếm

2 - Có hai nơi được xem như Trungtâm văn hóa quan trọng của Miền Nam lúc bấygiờ, đó là Vĩnh Long và Định Tường . Hainơi này đã đào tạo một Phan Thanh Giản thiđậu tiến sĩ . Ông bị lên án là ông quan nhunhược, đầu hàng thực dân vì đã chấp hànhhòa ước với Pháp năm 1862, nên sau đó ông đãchọn cái chết để tỏ tiết tháo sĩ phu . Dânmiền Nam không quên những nhà Nho ái quốc và đầytiết tháo khác, như Bùi Hữu Nghĩa thi đậuthủ khoa ; thủ khoa Huân chết sống với MỹTho; Trương Công Định rạng danh chống Pháp ởđám lá Tối Trời, Gia Thuận, Gò Công; Thiên HộDương, mộtđiền chủ ái quốc chống Tây ở ĐồngTháp ; Nguyễn Trung Trựcchống giữ vùng Nhật Tảo nêu cao tấmgương ái quốc và can trường mà ngày nayngười Rạch Giá tôn thờ là vị thần linh :

Lửahồng Nhật Tảo oanh thiên địa

Kiếm bạc Kiên Giangkhấp quỷ thần”.

Đó là 4 vị sĩ phu Nam Hà xuất thântừ trung tâm văn hóa Định Tường và VĩnhLong, sống chết cho Đồng Bằng Sông Cửu Long .

Trong quá trình khai mở miền Nam, nhàNguyễn chiêu mộ dân lập ấp đưa vềmiệt dưới như Ba Xuyên, Cà Mau, Rạch Giá . Trongchương trình lập ấp, tức tổ chứcđịnh cư về mặt xã hội, chánh quyền nhàNguyễn kêu gọi những tù phạm nếu hưởngứng chương trình này họ sẽ đượckhoan hồng  

Nhà Nguyễn theo đuổi mục tiêuchiến lược là mở rộng bờ cõi về phíaNam, thiết lập và củng cố chánh quyền miềnNam, tổ chức phòng thủ chống ngoại xâm .

3 - Khi thực dân Pháp đến, nhậnthấy tầm quan trọng chiến lược củamiền Đồng Bằng Sông Cửu Long, nên họ chobố trí lực lượng quân sự kỹ lưỡng. Nhưng vẫn không thiếu những người dânthường, dưới sự lãnh đạo hoặcảnh hưởng những tấm gương sáng áiquốc của các sĩ phu Nam Hà, đứng lên từngnhóm chống Tây . Họ bị bắt và bị đàybiệt xứ, tức bị đày qua Rạch Giá, BạcLiêu, Cà Mau, hoặc chính họ rời bỏ Hai Huyện màchạy trốn qua những vùng đất mới nàyđể lánh nạn :

Cần Thơlà cảnh

Cao Lãnh là quê

Anh đi khỏi xứ Tào Khê

Thoát vòng lao lý đâu dè gặpem”.

Đồng thời, thực dân Pháp xoadịu, tránh mọi phản ứng không cần thiếtcủa dân chúng . Họ mở trường dạy họcvà mời các ông đồ ngày trước làm đốchọc và thầy giáo . Học sinh không mấy người chịuđi học trường của Tây khai mở .

Khi thực dân Pháp tới thì Văn Miếutiêu biểu nền Nho học vẫn còn . Lập tức,các giáo sĩ Vatican chiếm lấy ngay để biếnlàm nơi truyền giáo . Họ muốn vĩnh viễn tiêudiệt mọi mầm mống chống đối chínhquyền thực dân vì Nho sĩ vẫn là “cái đầu”của xã thôn và đồng thời xóa tận gốcvết tích nền học vấn cũ ung đúc lòng yêunước và tinh thần quật khởi trong dân chúng, thaythế vào đó là cái học mới theo nền văn minhTây phương . Chính sự việc này còn là nguyên nhân sâu xacủa tầng lớp sĩ phu chống đốithực dân Pháp và đợt sóng văn minh mới .

Trước lòng dân oán hận, thực dânPháp phải cho duy trì những tập tục cũ nhưlễ lạc, tín ngưỡng dân gian . Ông già Ba Tri,tức nhà Nho ái quốc Nguyễn Đình Chiểu thanthở, lòng đầy uất hận vì bấtlực :

Thà đui màgiữ đạo nhà

Còn hơn sáng mắt, ông chakhông thờ ”.

 

III - SƠLƯỢC VỀ VĂN HÓA – XÃ HỘI

1 - Có nhiều người quan tâm phân biệt nhữngvùng đất khác nhau, như, “Miệt Vườn” vớiĐồng Bằng Sông Cửu Long. Chữ “Miệt”chỉ một vùng đất ở xa theo vị tríđịa lý đối với người nói chuyện,như “Miệt Trên” , “Miệt Dưới”,  “MiệtCao Lãnh” ,“Miệt Đồng Tháp”, “Miệt Xà Toóng” , “MiệtBảy Núi”…

“Miệt Vườn” chỉ những vùngđất cao, thấm nước ngọt, thuậnlợi cho việc lập vườn tược cây trái .Nơi đây, cách sinh hoạt được tổchức khác hơn so với những nơi người dânsanh sống bằng nghề làm ruộng . Từ đó, phongcách xã hội của người dân cũng khác . Họ cóvẻ thanh tú hơn nông dân ở vùng ruộng nước .Khỏi phải nói, phụ nữ “Miệt Vườn”đẹp hơn phụ nữ “Miệt Ruộng” vô cùng .

 Đời phải đờithạnh trị

Cuộc phải cuộcvăn minh,

Kìa là gió mát trăng thanh

Biết đâu nhơnđạo bày tình cho vui”.

(Câu hát dân gian)

Người miệt vườn hay miệtruộng tuy có khác nhau về phong thái xã hội nhưngphần lớn họ đều nặng lòng ái quốcnhư nhau . Đó là nét văn hóa dễ nhận ởngười dân của vùng đất mới này . Vềcách tổ chức đời sống, họ ăn mặcđơn giản, ngắn gọn nên chiếc áo bà barất thích hợp với mọi người và mọilứa tuổi . Nhà cửa thường xây cất tậptrung theo trục giao thông như đường cái, ven sôngrạch và mở toang ra bên ngoài, khác với miền Bắc,nơi thời tiết lạnh lẽo . Từ đó, tánhtình người miền Nam, nhất là miền ĐồngBằng Sông Cửu Long, tỏ ra thật thà, bộctrực, không thích suy nghĩ, nói năng quanh co, bợđỡ, xảo trá,… Trong quan hệ giao tiếp, họluôn luôn nhiệt tình với lối xóm, bạn bè : “Bà con xakhông bằng láng giềng gần”. Với bạn bè haylối xóm, họ phải ăn ở với nhau cho “điệunghệ”, tức theo “đạo nghĩa” (nghĩa = côngbằng, cho phải phải phân phân để không mấtlòng nhau vì không ai bị thiệt) .

2 - Sau khi ổn định xong vùng đấtmới với chế độ thuộc địa,người Pháp bắt đầu mở rộng sự xâmnhập văn hóa Tây phương . Họ mởtrường dạy chữ quốc ngữ, chữ Tây chungvới chữ Nho nhưng trọng chữ Tây hơnđể sớm đào tạo một lớp quan chứcmới, phục vụ cho bộ máy hành chánh thuộcđịa . Lớp “sĩ phu” Tây học này đượctrả lương cao nên có đời sống vậtchất dễ chịu và họ rời bỏ ruộngvườn ra sanh sống ở thành thị . Đây chính làlúc nhà Nho Tú Xương than thở :

Cái học nhàNho đã hỏng rồi

Mười người đihọc, chín người thôi…”

hoặc châm biếm cách thi cử theochế độ mới :

Lôi thôi sĩtử vai đeo lọ

Ậm oẹ quan trườngmiệng thét loa,

Lộng cắm rợptrời quan sứ đến

Váy lê quét đất mụđầm ra.

hoặc  

“Trên ghếbà đầm ngoi đít vịt

Dưới sân ông cử ngoảnhđầu rồng.

Than thở cho số phận của mộtông Nghè, ông Cống và giễu cả ông Phán:

Nào có lạ gìcái chữ nho

Ông Nghè ông Cống cũngnằm co,

Sao bằng đi học làm ôngPhán

Tối rượu săm banh,sáng sửa bò.

Tuy nhiên, ở đây vẫn còn nhữngHọc Lạc, Thủ Khoa Huân, Đồ Chiểu,Sương Nguyệt Anh cố bám giữ cái học cũ .Họ làm thơ cổ bằng chữ nho . Nhưngnhững sáng tác của nho sĩ chỉ đượcmột số ít người có học chữ nho đónnhận nồng nhiệt mà thôi . Trước trào lưuồ ạt của văn minh tây phương, mộtsố nhà nho đành chấp nhận “đầu hàng”, quay radịch truyện tàu ra quốc ngữ, hoặc truyệnbằng chữ nôm ra quốc ngữ . Từ cuốithế kỷ 19, bắt đầu có những sáng tác, báochí bằng chữ quốc ngữ như “Thầy LazaroPhiền” , “Gia Định báo”, “Nông Cổ Mín Đàm”,…Truyện văn vần như Phạm Công Cúc Hoa, Lâm Sanh XuânNương, Sáu Trọng, … bằng quốc ngữ rấtđược rộng rãi giới bình dân ưa chuộng .

Những nho sĩ ái quốc cũng bắtđầu đón đọc những tác phẩm vềtư tưởng tây phương, như của Montesquieu,J.J.Rousseau, qua Hán văn dịch từ tiếng Nhựt .

Một lần nữa, những nho sĩ áiquốc chịu ảnh hưởng tư tưởng chínhtrị tây phương, đứng lên làm cách mạngchống ngoại xâm, giành độc lập dân tộc màkhông “Cần Vương” nữa .

Tiếp theo, một lớp ngườimới, học trường Tây, chữ Tây ngay từnhỏ, lớn lên, học xong, đỗ đạttrường Tây, họ kêu gọi dân chúng tập hợplại chống Tây . Những người này khác hẳnvới một số người đương thờivới họ, học Nga, học Tàu, trình độ họcvấn kém hơn họ nhiều nhưng lại theo Nga, theoTàu, đánh mất hoàn toàn con người Việt Nam ỏhọ .

Những người học Tây mà theoViệt Nam đó là Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ ThuThâu, Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà, NguyễnVăn Sâm, Trần Văn Ân, Võ Thành Cứ, . . .

3 - Trong sinh hoạt văn hóa, một bộmôn nổi bật và hấp dẫn quần chúng mạnhnhất là hát bộ, hát cải lương và đờn catài tử .

Vào đầu thế kỷ qua, nhà in PhátToán ở đường Nguyễn Văn Thinh, Sài Gòn 1, invà xuất bản “Bản đờn tranh và bài ca”.

Người bấy giờ chơiđờn ca theo quan niệm là đờn ca chỉđể “di dưỡng tánh tình, giao cảm vớibạn tri âm”, hoàn toàn không có ý làm tiền nên cònđược dân chúng và giới mộ điệu gọilà “văn nghệ tài tử”.

Ngày trước, đờn ca, hát múachỉ dành riêng và thạnh hành trong Cung đình, nay mởrộng ra phục vụ dân chúng, mà lại là dân chúng miềnĐồng Bằng Sông Cửu Long .

Cải lương và nhiều bài hát cònlưu truyền cho tới ngày nay đều xuất pháttừ miền Đồng Bằng Sông Cửu Long, bởivì miền này trù phú, người dân có đời sốngsung túc nên có thời giờ và điều kiện nghĩđến những môn giải trí tao nhã . Từ đóxuất hiện văn nghệ .

Tại Vĩnh Long, có ông Tống HữuĐịnh tổ chức ca hát tại tư gia của ông .Người ca hát đứng trên bộ ván và hát có bộ,tức có nhiều cử chỉ để diễn tả ýcủa bài hát .

Cũng ỏ Vĩnh Long, có ông Huờn, côngchức tòa án, sáng tác bài ca cải cách, ông PhạmĐăng Đàng là một thầy đờn nổitiếng, ông Trương Duy Toản là soạn giảtiền phong về cải lương . Ông Toản còn là kýgiả và chủ bút báo Trung Lập . Về Từ Hải, ông ca ngợitinh thần anh hùng, tranh đấu mà không vì “công hầukhanh tướng”, lại phảng phất tinh thần yêunước : 

“ … Đườngcung kiếm, cái chí nam nhi

Núi sông là phận, từđây quyết vẫy vùng cho sống dậy trần ai

Rền một trời,đùng đùng xao động,

Tài oanh liệt, mấyngọn gươm vàng

Rạch một sơn hà,mặc dầu ngang dọc…”

Đờn ca chẳng riêng biểu diễncho công chúng Đồng Bằng Sông Cửu Long thưởngngoạn mà còn được đem qua tận xứ Pháp,tham dự như phần văn nghệ tại cuộctriển lãm quốc tế vào lúc bấy giờ .

Miệt vườn một thời nổitiếng “ca nhạc tài tử với bộ điệu”đã ảnh hưởng mạnh đến những vùngxa xôi khác, như Sài Gòn . Ở Hậu Giang, lúc bấygiờ có ông Hai Khị,người gốc Minh Hương, giỏi về nhạc; ông Sáu Lầusáng chế bản “Dạ cổ hoài lang”, tức bảnvọng cổ còn lưu truyền đến ngày nay .

Năm 1917, ông André Thậm lập gánh xiệc cópha ca hát có điệu bộ .

Qua đó, chúng ta thấy cải lươngra đời từ miệt vườn, thâu thái cái haycũ, đổi mới theo nhu cầu, hoàn cảnhđịa phương .

Người dân đến đâyđịnh cư lập nghiệp cũng vận dụngóc sáng tạo để thích nghi với từng hoàncảnh, điều kiện đất đai, nướcgió . Nơi họ giữ ruộng cày cấy, nơi họxạ lúa và nơi thì họ trồng đủ các loạicây ăn trái,…

Mỗi chọn lựa đều nhằmthích nghi để phát huy khả năng sản xuất .

Văn nghệ tài tử và cách tổchức đời sống của người Việttừ miền ngoài vào đây theo bước nam tiến làhai nét đặc trưng của văn hóa dân tộc :

Chuồnchuồn bay thấp

Mưa ngập ruộngvườn

Nghe lời nói lại càngthương

Thương em, anh muốnlập vườn cưới em ”.

(Câu Hò)

Người miệt vườn có tiếnglà văn minh –“Văn minh miệt vườn”. Thế mà khitiếp xúc trực tiếp với nền văn minh tâyphương, họ chẳng những ngỡ ngàng mà còn úớ nữa .

Năm 1917, máy hát dĩa chạy bằng dâythiều nhập vào Việt Nam . Nhà giàu miệt vườnlà trong số những người mua sắm máy hátđầu tiên . Khi nghe máy hát, có nhiều ngườisợ hãi bảo nhau : “Trong đó, có hồn người tabị bắt nhốt vào nên nó mới hát thành tiếng . Chứmáy bằng sắt thì làm gì nói ra tiếng người tađược”. Còn thấy máy chụp hình thì họcàng sợ hãi hơn nữa, vì họ cho là máy chụp hìnhsẽ “hốt hồn vía” của họ mất đi .

4 - Khi phong trào cách mạng Duy Tân phátđộng năm 1919, Kỳ Ngoại Hầu CườngĐể đến Mỹ Tho, Tân Châu, Cao Lãnh vậnđộng quần chúng . Qua năm 1910, có thêm những nhàcách mạng, như ông Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc, VõHoanh từ Côn Đảo được đưa vềvà chỉ định an trí ở Bến Tre, Mỹ Tho, SaĐéc . Những nhân sĩ Nam Kỳ theo phong trào Duy Tân,Đông Du như các ông Nguyễn An Khương, Nguyễn AnCư, Nguyễn Thần Hiến, Gilbert Trần ChánhChiếu, Nguyễn Quang Diêu, gốc Nho học nên chịuảnh hưởng Tôn Dật Tiên “Tiết chế tư bổn, bìnhquân địa quyền”.

Hưởng ứng cuộc vậnđộng cách mạng dân tộc của các nhà ái quốcnày, thanh niên Nam Kỳ dấn thân theo chương trìnhĐông Du đông đảo hơn những nơi khác, vàdân Nam Kỳ đóng góp tiền bạc cũng nhiềuhơn những nơi khác .

Sách báo bằng quốc ngữ, nhờnhững điều kiện thuận lợi củađịa phương nên xuất hiện ở xứ NamKỳ phải nói là rất sớm, vào cuối thếkỷ 19 .

Về truyện, có “Thầy Lazaro Phiền”của Nguyễn Trọng Quảng, mà ngày nay ngườiđọc vẫn hiểu được nhưthường bỡi lời văn tuy có xưa nhưngvẫn không quá khác biệc với chữ nghĩa ngày nay .

Về báo, có Gia Định báo xuấtbản vào cuối thế kỷ 19 và kéo dài làm nhiềuchục năm, qua đến cuối thập niênđầu của thế kỷ 20 . Lục Tỉnh TânVăn tiếp theo và tồn tại khá lâu . Nam Phong và PhongHóa, Ngày Nay chỉ xuất hiện sau, vào cuối tiềnbán thế kỷ 20 . Cũng như về tiểu thuyết,đến năm 1923 mới thấy Tố Tâm của HoàngNgọc Phách, trong lúc ấy, tiểu thuyết quốcngữ của Hồ Biểu Chánh đã ra mắt vào năm1916 .

Thế mà văn học sử chỉthấy ghi tiểu thuyết quốc ngữ chỉ cóTố Tâm, Tự Lực Văn Đoàn và báo, chỉ có NamPhong, Phong Hóa, Ngày Nay . Điều đáng buồn là khôngđược ghi nhận sự “có mặt” của sách báoNam Kỳ, chứ không phải được ghi vào danhmục rồi bị phê bình là “dở quá”, không xứngđáng là tác phẩm văn học !

5 - Một sự kiện văn hóa ĐồngBằng Sông Cửu Long nổi bật rực rỡ chỉtrong vòng không quá hai năm, thâu phục hơn 2 triệungười, đủ thành phần xã hội, nam nữ,tuổi tác và đưa số người này khuôn vàonếp sống hướng thượng, lành mạnh,đạo đức và đầy lòng ái quốc . Đó làsự ra đời của Phật Giáo Hòa Hảo vào năm1939, tại Châu Đốc .

Các nhà ái quốc tiền bối đau lòngcho vận nước, không ngại gian khổ, bôn ba rahải ngoại vận động cứu nướcnhư phong trào Duy Tân, Đông Du . Nối tiếp côngcuộc đó, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ,trước tình hình thế chiến bùng nổ, vậnmạng Việt Nam còn trong vòng kiềm chế củathực dân, bèn đứng lên vận động quầnchúng ngay nơi Ngài sinh trưởng, tức quần chúngnông dân miền Đồng Bằng Sông Cửu Long . Ngài ýthức sức mạnh đánh đuổi ngoại banggiành độc lập cho đất nước không tìmở đâu khác hơn là ở ngay đồng ruộng miềnNam . Cũng như về tu Phật, Ngài dạy “Phậttại tâm chứ đâu mà tìm”.

Trào lưu văn minh Tây phương đãlàm đảo điên xã hội, Ngài cổ súy chấnhưng phong hóa nước nhà, đồng thời thứctỉnh lòng ái quốc ở người dân để thànhlập phong trào nhơn dân tranh đấu cứunước. Ngài lấy đạo dạy đời làmcăn bản : 

Đờikhông đạo, đời vô liêm sỉ

Đạo không đời,đạo biết dạy ai”.

và sống đời sống củangười Phật Giáo Hòa Hảo lấy TứĐại trọng Ân làm kim chỉ nam :

Tu đền nợ nước cho rồi

Thì sau mới đượcđứng ngồi tòa sen”.

Trước đó, năm 1927, tạimiền Đông xuất hiện Cao Đài Đại Đạo . Đây cũng làmột tôn giáo ái quốc của xứ Nam Kỳ, vùngđất vừa mới được khai mở,thiếu cái gốc ngàn năm của đất ThăngLong hay đất Thần Kinh . Cao Đài xuất hiện ở miềnĐông vì dân Hai Huyện văn minh hơn, có học Tâynhiều hơn, và số người làm việc cho bộmáy hành chánh của Tây cũng đông đảo hơn .Từ đó, cách tổ chức, hành đạo, truyềnbá giáo lý của Cao Đài ĐạiĐạo đều mang tính khoa học tây phương . Ngườikhai mở đạo là một vị Đốc PhủSứ . Những người cầm đầu mốiđạo cũng là những người thuần tâyhọc. Và Cao Đàimở rộng trong tầng lớp trung lưu, công tưchức Nam Kỳ.

 

lV - GIỜĐÂY VÀ NƠI ĐÂY (*)

Hội Ái Hữu Đồng Bằng SôngCửu Long là một tập hợp những ngườiViệt hải ngoại, ngày nay đến đây lậpnghiệp. Tất cả cùng có chung quê hươngthuộc vùng sông nước ấy .

Trước kia, tiền nhân của họđã một lần rời bỏ làng xóm, quê hươngtheo bước chân nam tiến đến vùng đất xaxôi, từng bước định cư, lập nghiệpvà cùng nhau thành lập miền Đồng Bằng SôngCửu Long .

Giờ đây, con cháu của họ lạimột lần nữa rời quê hương của ông chađể lại, tản mạn ra hải ngoại ởkhắp nơi . Rồi ở đây, họ cùng nhau dựnglại Đồng Bằng Sông Cửu Long với những conngười “miệt vườn, miệt ruộng”thiệt, nhưng trên đất đai của xứđịnh cư .

Nhưng Đồng Bằng Sông Cửu Longở đây mới chính là “cái còn” của chúng ta, vì chúng tađã dựng lại nó với tất cả tâm tình chânthật, với nếp văn hóa của lớp con cháucủa những người trước kia khai mở nó .

“Cái còn” này chúng ta phải trân quý, gìn giữ .Nếu để mất một lần nữa là chúng tabị mất hết, mất trọn vẹn gia sảntiền nhân .

Cũng như người con gái miền ĐồngBằng Sông Cửu Long, trước làn sóng văn minh TâyPhương làm thay đổi nếp sống miệtvườn, cương quyết bảo vệ cho kỳđược cái nét đôn hậu ở người yêu :

Áo bà ba, vạtngắn vạt dài

Em may cả đống đó,sao anh không bận, mà anh bận chi hoài cái áo bành-tô ” ?

Quả thật, người con trai giậtmình, thức tỉnh trước lời người con gáitrách móc . Bổng tự nhiên anh cảm thấy nhữnglời mộc mạc ấy có sức mạnh nhưmột công án thiền . Không biết phải thốtlời gì khác hơn là tìm cách tự bào chữa cho mình .Lời ngụy biện nhưng rất có duyên chắcsẽ làm mát lòng người yêu :

Áo bành- tôxấu mặt nhưng dễ nhìn

Anh bận nó hoài… để cócái túi bự… mà anh đựng cục tình của em… 

Nguyễnvăn Trần,

Nôngdân Miệtruộng phèn» Cần Giuộc

Ghichú: 

(*) Ghi lại buổi nói chuyện hôm lễgiới thiệu Hội ÁiHữu ĐBSCL tại Vancouver,

với vài sửa đổi nhỏ

  • Áo Bành-tô là áo của Tây, như áo «Vết» ngày nay .
  • Sơn Nam. Đồng Bằng Sông Cữu Long, Xuân Thu, TX, huê kỳ
  • Sơn Nam. Tìm hiểu đất Hậu giang, Phù Sa, Saì gòn, 1959
  • Phan Khoang. Lich sử Đàng Trong, Sài gòn, ( sd )
  • Nguyễn văn Hầu. Thoại Ngọc Hầu, Những cuộc Khai phá Miền Hậu giang,
  • Hương Sen. Sài gòn, 1972
  • Vài tài liệu của Văn Khố pháp, tài liệu Hội thảo về “Âu Á” ở Aix-en-Provence

 (bảng chụp thiếu ngày )