Kẻ đưa đường

Khi bà Sáu Đợi cố hết sức chenđược khỏi đám đông lúc nhúc ở bếnxe đò lục tỉnh để ra tới ngoài thì cũngđã xế chiều. Cái mặt trời cuối ngàylặn xuống gần sát nóc dãy lầu cao bên kiađường, sáng đỏ như chiếc mâm thauđược chùi sạch. Vậy mà nó còn rán chiếunhững tia nắng vàng nhạt le lói trên tấm bảngquảng cáo kem đánh răng sơn hình người chàđen với hai hàm răng trắng bóng, dựng ởđàng xa. Từ tờ mờ sáng, ngồi bó gối trênchiếc xe đò chật nứt, vượt mộtkhoảng đường dài trên hai trăm cây số ngàn chotới giờ, bà cảm thấy vừa đói vừamệt.

Một bà già tuổi vừa tròm trèm sáu mươi, taynầy phải xách một cái giỏ ny-lông lớn cộtràng chằng chịt, đựng đầy quần áo,vật dụng với trầu cau vôi thuốc, và tay kia,một con vịt xiêm lớn gần bằng con ngỗng thìđâu phải là một chuyện dễ dàng. Bà Sáu vừađi vừa thở, tay kéo lê con vịt lông xám đen, óngmàu xanh mươn mướt, cái mồng thịt u từngcục nhỏ màu đỏ bầm, cái mõ quét lệtbệt trên đường, để đến gầncột đèn. Con vịt cũng quá mệt mõi và đauđớn vì bị cột tréo cẳng cả ngày nên khôngcòn sức dãy dụa, há miệng kêu vài tiếng cạpcạp nhỏ xíu rồi nằm im. Vài cơn gió mát từxa thổi đến nhè nhẹ, bà Sáu ngồi bệtxuống lề xi măng, dựa lưng vào cây cộtđèn mà thở một hồi cho lại sức.

Đã lâu lắm rồi bà không có dịp lên Sài Gòn,đâu chừng đã mười mấy năm.Trước mắt cảnh vật quay cuồng, nhộnnhịp. Cái gì cũng xa lạ quá chừng. Nhà cửa thì xâycất cao vút, đường xá chằng chịt dọcngang. Mùi nhựa đường, mùi cao su, mùi khói xăngnhớt cùng tiếng xe cộ, tiếng người ta,tiếng vật dụng va chạm nhau, trộn lẫn nhau,tạo thành một thứ gì ồn ào, hỗn độn.Mắt nhìn mà không thấy hết, tai nghe nhưng không phânbiệt được gì, đầu óc bà trở nênbồng bềnh, không định. Bà Sáu bị choáng ngộptrong cái thế giới của màu sắc, âm thanh, cảnhvật kỳ dị, lạ lùng. Tự nhiên bà đâm lolắng, quơ tay cầm cái nón lá quạt nhè nhẹ,mắt nhìn ra xa. Người ta sao đông quá. Chỗ nàocũng đầy người đi lại nhưngtuyệt nhiên không một ai quen. Đâu có người nàođể ý tới bà, thản nhiên đi đứng sinhhoạt như không hề biết đến chiều nay,ở trong cái thành phố to rộng nầy, có một bà giàlặn lội từ thiệt xa đến với mộtnỗi lòng bồn chồn náo nức, một niềm vuisướng không bờ bến để mong gặplại người chồng thương yêu mà bà đãchờ đợi trên ba mươi năm.

Phải rồi vừa đúng chẳn ba mươinăm cách biệt, kể từ ngày ông Sáu đànhđoạn bỏ bê vợ dại con thơ đểdấn thân lo việc nước dưới tài lãnhđạo của cụ Hồ. Thời gian chờđợi mõi mòn. Chuyện tái hợp không bao giờ dámnghĩ đến, nào ngờ nó vẫn xảy ra. Nhưmột giấc chiêm bao dài, có buồn có vui, có lúc bắtđầu và có đoạn kết thúc. Cái lúc bắtđầu thì có thương yêu, có tình nghiã, có nhớthương, sầu khổ. Cuộc nội chiếntương tàn kéo dài của đất nước nhưmột vết thương lở loét, làm đổ vởluôn cái hạnh phúc lứa đôi của cặp vợchồng son trẻ với những ước mơthật giản dị. Những ngày tháng lo lắng, sợhãi. Những sáng nhớ, chiều mong. Có trái tim nào mà không héohon, có cõi lòng nào mà không hoá thành đá. Cái đoạn kếtthúc thì sắp tới rồi. Chỉ còn một đoạnđường ngắn, chừng ăn giập bã trầulà bà Sáu sẽ gặp lại người chồngđầu gối tay ắp năm nào với mộtniềm vui trùng phùng chứa chan...

Chừng đã bớt mệt, bà Sáu đứng lênđịnh kiếm xe để đi đoạn cuốithì một chiếc xích lô từ góc đường trờtới. Người phu xe nhịp nhịp cái cầnthắng tay nghe lóc cóc, tuột xuống cái yên, chạy ađến nắm lấy cái quay giỏ xách, miệng chàokhách:

-Ngoại đi về đâu, tui đưa cho ?

Bà Sáu Đợi sợ cái giỏ bị giựtmất, vội nắm ghịt lại, tay kia giởchiếc nón lá, ngước mắt nhìn thấy ngườiphu xe trẻ tuổi, ngó một hồi lâu rồi nóingập ngừng:

-Tôi muốn đi tới đường...đường gì đó, quên mất cái tên, cái số thì làmột trăm... Ừ, ừ, ổng có viết trong thơnói rõ đường đó hồi xưa tên Mặt MáHồng, chú có biết không ?

Anh phu xe quay qua chụp lấy con vịt, quăngxuống dưới chỗ gác chưn, sửa lại cáinệm xe nhăn nhúm, miệng tía lia:

-Ngoại yên chí, đường ở bên Tây bên Mỹthì tui không biết, chớ ở Sài Gòn, Chợ Lớnnầy ngoại muốn đi chỗ nào, tui đi chỗđó cho coi !

Bà Sáu chưa vội bước lên xe, tay vịnlấy cái mui bằng vải ka- ki dày màu cứt ngựa:

-Mà từ đây tới đó, chú tính ăn bao nhiêu ?

-Thì ngoại cứ lên đi, tui không tính mắcngoại đâu !

Bà Sáu nghe xong, muốn bước lên cho rồi,nhưng còn e dè, vì nhớ lời dặn dò của xómgiềng- ở Sài gòn người ta ưa gạt gẫmmấy người nhà quê thiệt thà, chất phác, bàđứng yên không nhúc nhích:

-Đâu có được nà, chú phải nói rõđể tôi còn liệu chớ. Rủi nhiều quá, tuikhông đủ tiền thì lấy gì trả đủ chochú.

Anh phu xích lô cười hì hì:

-Ngoại lo xa chi cho mệt. Có thiếu thì còn convịt xiêm nè.

Rồi anh đẩy bà lên nệm xe:

-Thôi tui tính ngoại mười đồng. Từđây tới đó xa lắm. Tui tính rẻ cho ngoại.Người khác thì tui đòi đủ mười bađồng.

Nói xong anh khom lưng đẩy xe lăn vài vòng cho cótrớn rồi nhẩy lên ngồi ngất ngưởûngtrên cái yên xe cao nghệu ở phía sau, ra sức đạpmạnh. Cái xe chở một bà già trầu ốm o nhỏcon nên nhẹ hững, chạy vùn vụt. Bà Sáu Đợiđịnh trả giá bớt vài đồng nhưngthấy xe đã chạy khá xa nên đành thôi. Vả lại,hôm nay là ngày vui lớn nhứt đời bà, dẫu cóthiệt thòi năm ba đồng bạc cũng không sao.Đã mấy mươi năm qua, ông Sáu đi biệttăm biệt tích, bỏ mẹ con bà bơ vơ nhữngtưởng đã chết ở một chưn trời gócbiển nào rồi. Ngờ đâu, bây giờ ổng lạitrở về, mạnh khoẻ lành lặn, không mộtthương tích gì hết. Phước đức biếtbao nhiêu.

Bà ngồi dựa lưng trên nệm xe, hai chưnduỗi thẳng ra cho thiệt thoải mái. Nỗi mệtnhọc ban trưa tan biến từ từ. Chiếc xevẫn lăn bánh đều đều. Phó xá hai bênđường thay đổi muôn hình muôn vẻ. Có cái nhàthiệt cao, có cái thấp. Có cái nhô ra có cái thụt vào.Bảng hiệu xanh xanh, đỏ đỏ. Nhưngphần lớn nhà nào cũng đóng cửa kín mít. Ởlề đường có các sạp bán thuốc lá và các mónhàng lặt vặt. Người buôn kẻ bán lưathưa. Trên mặt đường lộ người tađi xe đạp nhiều quá, phải chen lấn nhau. Anhphu xe cứ phải nhịp thắng loong coong làm hiệu,miệng chữi rủa lầm bầm không dứt.

Bà Sáu nhìn hai hàng cây sao cao vút bên đường màtưởng tượng hoài cũng không hình dung rađược cái cảnh gặp gỡ của hai vợchồng sau ba mươi năm xa cách nó sẽ ra sao ? Còn ôngSáu thì chắc đã già lắm rồi. Ông tuổi con mèo,vậy là lớn hơn bà bốn tuổi, tính đếnnăm nay là sáu mươi ba. Cuộc sống lạiđầy phong sương gió nắng thì ổng cũngnhư một cái cây mọc trên đỉnh đồi khô,tả tơi, héo úa. Răng chắc đã rụng, mắtđã mờ, da dẻ nhăn nheo, cũng y như bà bâygiờ. Tuy nhiên có điều, ông không như bà vềmặt công danh sự nghiệp. Sau một thời gian dàiphấn đấu cam go trong cuộc sống, cô Sáu bántrầu chỉ trở thành bà Sáu... cũng bán trầu. Cònanh nông dân Sáu Nếp chuyên cày bừa cuốc xới thìtrở thành Thượng Tá Nhật Hồng. Bà Sáu chắclưỡi, thiệt tình cách mạng có nhiềuđiều khó hiểu quá. Thượng tá là làm việc gìbà không biết đã đành rồi mà tại sao ổng tênlà Nếp rõ ràng mà nay đổi là Nhật Hồng, bàcũng chịu thua luôn.

Bà Sáu thấy cần phải chia xẻ bớtniềm vui no ứ đang tràn ngập trong tim trong phổi:

-Chú đạp xe như vầy có khá không ?

-Đạp xích lô làm sao mà khá được ngoại.Đủ ăn là mừng lắm rồi.

Rồi anh ta cúi sát lưng xuống đổi sanggiọng hỏi thăm:

-Bộ ngoại lên Sàigòn thăm bà con hả ? Convịt xiêm mập ghê. Đúng là vịt Cà Mau.

Cái niềm vui được dịp nổ bùng qua câutrả lời trật nhịp:

-Tui đâu phải ở Cà Mau. Ở Ba Tiệm đó!Đi ngã bắc Vàm Cống mà !.

Anh phu xe chừng như chưa bao giờ nghe qua cáiđịa danh là lạ đó, phát cười:

-Ba Tiệm là ở đâu vậy ngoại, có gầnNăm Căn không ?

Không kịp để ý câu hỏi lý lắc của anhphu xe, bà giải nghiã thiệt tình:

-Vậy là chú chưa đi xuống miệtdưới phải không ? Để tui nói cho nghe nè. NămCăn, Đầm Dơi, Cái Nước là ở tuốtdưới Cà Mau kia lận. Chú muốn đi xuốngdưới đó thì phải qua bắc Mỹ Thuậnrồi theo ngã Vĩnh Long qua bắc Cần Thơ, đi SócTrăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Đó là tui nói mấy tỉnhdọc theo bờ sông Hậu. Còn Ba Tiệm là ở phía ChâuĐốc. Cũng đi quốc lộ bốn tớibắc Mỹ Thuận, phải tẻ bên ngã Sa Đécrồi qua bắc Vàm Cống để đến Long Xuyên.Từ Long Xuyên mình đi lên gặp Cái Dầu, Vịnh Trerồi mới tới Ba Tiệm...

Rồi không cần biết người phu xe có ngheđược hay không, bà nói tiếp:

-Chú lên tới đó rồi phải hướngvề Mỹ Đức chừng vài cây số nữamới tới nhà tui. Miệt trển người tathường trồng nhãn, trồng trầu. Vườntrầu của tui độ chừng ba công đất.Phải nhờ mấy đứa cháu nó tưới,chớ già rồi đâu có gánh nước nổi. Chúbiết không, trồng trầu cực nhứt là cái vụtưới...

Nói tới đây cảm thấy hình như chú phu xekhông còn để ý đến câu chuyện, bà bèn ngưngngang. Nhưng cái ảnh hưởng của câu nói còngợi cho bà liên tưởng tới hình ảnh nhữngngày mới lớn sống bên vườn trầu lá vàng rựcrỡ. Thưỏ đó bà phụ với cha mẹ,tưới nước, vô phân, hái lá, đem bán ngoài chợhoặc đếm bỏ mối cho bạn hàng ởtỉnh. Công việc đều đặn theo tháng nămcho đến ngày gặp ông Sáu. Bất chợt anh phu xeđâm hỏi ngang xương:

-Vậy chớ ông ngoại già gánh nước hếtnổi rồi hả ? Sao ổng không phụ vớingoại ?

Nghe hỏi tới chồng bà sung sướng hãnhdiện mà khoe:

-Ổng đâu có chịu ở nhà trồng trầu.Đi theo cụ Hồ từ thời tầm vong vạtnhọn. Cái thời Thanh Niên Tiền Phong á mà. Hồi xưathì làm ruộng ở Nhơn Ái. Ba Tiệm là quê của tui.Còn nhà ổng ở tuốt dưới miệt Ô Môn, BìnhThuỷ. Mà chú biết Ô Môn, Bình Thuỷ, Phong Điền,Phong Phú không ? Nhơn Ái thuộc quận Phong Điền,tỉnh Cần Thơ mà..

Nói tới đây bà nhớ tới cái thưởmới quen với ông Sáu. Đường đất từNhơn Ái tới Ba Tiệm nó xa xôi, diệu viễn.Phải qua biết bao nhiêu khúc sông, vượt biết baonhiêu dặm đường. Vậy mà hai ngườivẫn gặp gỡ nhau được mà thành chồngvợ. Như có bàn tay của ông trời sắp đặtvậy. Lúc đó có một đám cưới ở tronglàng, cô sáu Đợi má phấn môi son, tay cầm bópđầm đứng cạnh cô dâu. Bên đàng trai, anh Sáunếp áo dài, khăn đóng, lượt bượtbưng mâm lễ vật đi sau lưng chú rể, mắtliếc liếc nhìn trộm bên nhà gái. Chợt bắtgặp cặp mắt đen bóng như hột mãng cầucủa người con gái vườn trầu nhìn mìnhđăm đăm, tay chưn anh đâm luốngcuống. Cái tiệc cưới đông đảo,người người cười nói vang rân, vậy màanh Sáu có thấy ai nữa đâu. Anh tìm mọi cáchđể làm quen nhưng không dám, đành im. Cuối cùngphải nhờ bác Tư Sửu làm mai mối.

Bây giờ bà nhớ tới những ngày mới quennhau sau khi dạm hỏi mà còn tức cười. Cái kỷniệm ngày xưa sao mà dễ thương quá. Mộtbuổi sáng tháng chạp gần cuối năm, ông Sáukhệ nệ xách một xâu gà vịt cùng một bao gạonanh chồn để đi Tết bên nhà gái. Bà đãđứng nép bên cột nhà để nhìn ngườichồng tương lai, lòng rộn ràng e ấp. Ông Sáuđã đứng khoanh tay nói với ba má bà những lờithăm hỏi, giọng ấp a ấp úng, mặtđỏ rần. Bà chợt tức cười, đâmbạo dạn, vọt miệng trêu chọc ông bằngmột câu hát quen thuộc:

Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền

Anh thương em cho bạc cho tiền

Đừng cho lúa gạo, xóm giềng họ hay !

Ba má và ổng cùng cười. Má bà đã rầy:

-Có gì mà con sợ người ta nói ra nói vô. CậuNếp bây giờ kể như là rể con trong gia đìnhmình rồi mà !

Lúc đó bà cảm thấy mối tình của haingười êm ái như sóng lúa đêm trăng, dài rộngnhư sông Tiền sông Hậu, rực rỡ như rặngô môi tới mùa nở hoa. Sang năm sau, tới ngày đámcưới, bà phải về quê chồng sống nghềruộng rẫy. Tình thương hai vợ chồng trẻthiệt là chân thành những tưởng là êm vui cho tớingày răng long đầu bạc. Nhưng cái hạnh phúccon người tự nó vốn đã mỏng manh. Nói chiphải chịu thêm những biến cố của cuộcđời chi phối như một thứ địnhmệnh khắc nghiệt. Tự ngàn xưa, chiến tranhlà một thử thách nhiều đau xót cho ngườiđàn bà. Cái đêm từ giả để ra đi, ông Sáuđã cầm tay vợ dặn dò gởi gấm việc nhà,đồng thời hứa hẹn một ngày đoàntụ rất gần. Ông nói những câu mà bà còn nhớ mangmáng như vầy:

-Ngày hai vợ chồng mình gặp lại nhau phảilà ngày đất nước độc lập thanh bình.Toàn dân phải được ấm no, an cư lạcnghiệp. Cái hạnh phúc cá nhơn sao bằng cái hạnhphúc của tập thể, đồng bào...

-Sao em lo sợ quá! rủi thất bại thì sao ?

-Sao lại không thành công được. Có gì sơ sótnữa đâu. Con đường anh theo là đúng,người ta đã mở lối, mình chỉ có việcdấn bước. Vợ chồng mình cùng đồng bàongày nay như hành khách ngồi trong một chiếc xe, cóđược người tài xế đầy kinhnghiệm tài ba điều khiển. Cụ Hồ đãdầy công lặn lội qua Tàu, qua Nga để họchỏi.. rồi về dẫn dắt toàn dân theo. Anh chỉlàm bổn phận của người trai trong thờiloạn... Ngày về, hai vợ chồng mình sẽ gầydựng lại căn nhà cũ, cày xới lại mảnhruộng xưa, sống đời độc lập,tự do, sung túc, yên vui. Em rán chờ, để anh yên lòng màđi...

Chiếc xe vẫn lăn bánh đều đều,không mau không chậm. Phía sau giọng anh xích lô ồm ồmvang lên:

-Ngoại muốn đi tới đường nào ?Nói chuyện một hồi quên phứt rồi. Phan thanhGiản hay Trần Quốc Toản ?

-Trời đất ! Vậy nãy giờ chú chạyđi đâu ? Tui nói đi tới chỗ nhà mới củaổng. Ở ngoài Bắc ổng vừa về tới Sàigòn, đường Mặt Má Hồng, nhà số mộttrăm. Chú coi chừng lộn đường đó.Trời xế chiều dữ rồi đa !

Anh xích lô lẩm bẩm:

-Cái đường gì kỳ cục vậy ! MặtMá Hồng phải là đàn bà. Vậy là đường Bà HuyệnThanh Quan hay Hồ Xuân Hương gì đó phải khôngngoại ?

-Thiệt là khổ quá ! Vậy mà hồi nãy chú nóiđường xá Sài Gòn Chợ Lớn chú biết rànhlắm. Tui có biết bà nào là bà nào đâu. Rủi lạcđường tối nay tui ngủ ở đâu ?

-Ngoại đừng có lo. Trước sau gì cũngtới nơi mà. Tên đường đàn bà mớisửa lại thì có đường Võ Thị Sáu nè,đường Lê Thị Hồng Gấm, Nguyễn ThịMinh Khai...

-Hổng phải mấy cái tên đó đâu. ỔÅngviết trong thơ nói hồi xưa trước nămbốn mươi lăm, đường đó tên làMặt Má Hồng, còn bây giờ thì tên gì... tên gì đó,ổng cũng có viết rõ mà tui quên mất...

Anh phu xe cằn nhằn:

-Thiệt tình rắc rối quá ! Đời bây giờthì nói chuyện bây giờ, nói chi chuyện xưa. Muốnmá hồng thì đánh phấn tô son lên, dễ quá mà ngoại.Ừ, ừ, còn một bà nữa, chắc là đúngrồi. Phải đường Mạc Thị Bưởikhông ? Tên có chữ " thị " đúng là đàn bàrồi !

-Tui đâu có biết, chú liệu mà đi.

Chiếc xe vẫn lăn bánh. Từng conđường lần lượt qua. Chú xích lô nhìntừng tấm bảng chỉ đường trên cộtmà quanh trái, rồi quẹo phải. Ánh nắng đãtắt từ lâu, đèn đường thì chưa bậtsáng. Từng cơn gió thổi lùa vào trong khoang xe, bà Sáu nghetrên mặt mát rượi nhưng trong lòng thì nóng nhưlửa đốt. Chỉ còn một chút xíu nữa thôi là bàsẽ gặp lại chồng, nào ngờ gặp phảicái thằng phu xe ba trợn nầy. Bà nhắc chừng:

-Thôi chú không biết đường thì kiếmngười nào biết mà hỏi. Chớ chú chạy hoàichạy hũy vậy cũng không tới đâu.

-Ừ, ừ, ngoại nói có lý. Để hỏilại cho chắc ăn. Chớ theo tui, nó làđường Mạc Thị Bưởi, làm sao trậtđược.

Miệng vừa nói, anh ta cho xe cặp vô lề từtừ. Có một người đi ngang dáng lầm lũi.Anh phu xe ngừng lại, lon ton tuột xuống cái yên,chạy lại níu tay người khách bộ hành, hỏiđường đi.

Người kia ngợ một hồi lâu, lấy taychỉ chỏ ra dáng còn chừng xa lắm. Hai ngườiquơ tay quơ chưn ra dấu, chỉ chỏ lung tung. Bàthấy khi thì chỉ lên, khi thì chỉ xuống, bèn nhìn theohướng ngón tay, đường nào cũng dài thậmthượt, ngang dọc như bàn cờ, không giốngnhư dưới Ba Tiệm chút nào. Bà Sáu đành chịuthua, không biết đâu mà định hướngđược. Chú xích lô trở lại xe, miệng láp dáp:

-Con đường gì kỳ cục quá. Theo ông đóthì còn phải đi xa lắm. Dọc theo đườngnầy rối quẹo qua tay mặt, lên một cái cầu,rồi đi thêm hai đường nữa mới tới.

Nói xong anh ta lấy hết sức đạp thiệtmạnh. Cái xe đi vùn vụt. Bà Sáu sợ quá, vịnchặt cái thanh sắt bên thành xe mà chịu trận. Trongbụng nghĩ cái thằng nhỏ nầy nó phát khùngrồi. Thiệt là xui xẻo, đến phút cuối cùng rồimà sao còn rắc rối quá. Bà đâm lo và thắc mắc:

-Chú xích lô, chú xích lô, chạy chậm chậm lại.Chú chạy lẹ quá, rủi quanh cua nó lật úp hay xehơi đụng chết hết bây giờ. Mà, mà ... chú làmnghề đạp xích lô nầy lâu chưa ? Sao tui thấychú còn trẻ quá...

Chiếc xe từ từ giảm tốc lực,chạy chậm lại với nhịp độ bìnhthường, giọng người phu xe hổn hển:

-ỐÂi, ăn thua gì mà ngoại lo. Tui còn dám đuaHonda ngoài xa lộ, sá gì chiếc xích lô đạp chậm rìnầy. Hổng dấu gì ngoại, mới nghỉ họcđạp xích lô chừng tuần nay...

Nói xong anh ta rà thắng lại, cho xe leo lên dốccầu. Cái cầu nầy lai chia ra làm hai nhánh. Chiếc xetừ từ theo hướng tay mặt, ôm sát vòng quanh,rồi đi thẳng tới. Nhà cửa phố xá khunầy trông xập xệ tiêu điều, thiếu vẻkhang trang ngoài đường lộ lớn ban nãy. Cónhiều nhà phơi quần áo xanh đỏ phất phơtrước cửa. Dưới sân là những đốngxác mía được cào ra bốn phía để phơi chomau khô. Có nhà bày củi sắp lớp ở ngoài sân,những cây củi đước nhỏ bằng ngón taycái, được lột vỏ, thịt cây màu trắngđo đỏ. Có nhà làm nghề dệt chiếu, từngbó lát dài chừng hai thước được nhuộmphẩm xanh đỏ tím vàng, treo dọc theo hàng hiêntrước cửa. Chừng đã thấm mệt,chiếc xe chậm lại rồi ngừng hẳn. Anh phu xetay quẹt mồ hôi trên trán, miệng đòi tiền:

-Tới rồi ngoại. Ở đây nè !Đường nầy là đường Mặt MáHồng.

Bà Sáu nghe nói mừng quá, dợm bước xuống,nhưng nhớ lại trong thơ chồng đã tảvề căn nhà mới. Đó là một căn biệtthự có lầu cao ba từng, có trồng hoa kiểng.Trước nhà có cổng xây bằng đá hoa cương,bên trong toàn là cửa kiếng, đường trảisỏi trắng. Còn ở đây nhà cửa lụp xụp,mặt lộ đầy ổ hang, bụi bặm, rảirác đây đó có nhiều bãi phân bò, phân heo.

-Thiệt đúng là đường Mặt Má Hồngkhông đó chú ?

-Thiệt mà ngoại. Nói láo gạt ngoại làm chi. Tínhngoại mười đồng thôi. Đường xa quá,đáng lẽ phải đòi thêm...

Nói xong anh ta hối bà Sáu bước xuống, nắmcon vịt quăng trên lề đường, lấytiền nhét lẹ vô trong túi áo, rối đạp xe đithẳng. Bà Sáu bước vô lề, tay xách giỏ ny-lông,tay nắm lấy con vịt, mặt ngơ ngác loay hoay khôngbiết phải làm sao nữa. May quá, có một ngườiđứng tuổi đi ngang, dáng hiểu biết. Bà níutay lại hỏi thăm đường. Người kháchlạ, nghe xong trợn mắt nhìn sững bà từđầu tới chưn, rồi mới nói:

-Bà đi lầm đường rồi. Cáiđường bà hỏi đó lúc trước nó làđường Công Lý, nối liền vớiđường Cách Mạng Một Tháng MườiMột. Bây giờ nhà nước sửa lại là NamKỳ Khởi Nghiã. Nó ở tận bên Sài gòn lận. Cònđường nầy là đường Hưng Phúthuộc quận mười. Chỗ nầy kêu là khu ChánhHưng, bà không thấy cái lò heo lớn ở đàng kia sao ?

Rồi ông ta lấy tay chỉ chỉ về phíatrước mặt. Bà Sáu nhìn theo hướng chỉ,thấy nhà cửa phố xá chập choạng, bụngrối như tơ vò:

-Trời ơi, vậy sao ? Cái thằng xích lô trờiđánh thánh vật. Cái thân nó đã không biếtđường mà còn hứa ẩu, lãnh đưangười ta đi. Rồi biết chừng nào mớigặp được chồng tui !

Bà để con vịt xuống than thở:

-Thiệt là khổ quá chừng. Khi không đưa vôcông- xi heo để làm chi vậy nè trời !

Ông khách dợm bước đi nhưng còn rán anủi:

-Trời cũng đã hơi khuya. cũng may có mộtmình bà đi lạc cũng dễ tìm đường ra...Thôi, rán mà tìm người tài xế khác lươngthiện, tử tế hơn. Trước sau gì cũng tớimà, chỉ trễ nải một chút...