Nhàthơ Sương Nguyệt Anh - nữ chủ bút báo đầu tiên của Việt Nam

Trong chặng đường đầu của báo chí quốc ngữ Việt Namphụ nữ tham gia chưa nhiều nhưng có vai trò không nhỏ. Lịch sử từng trang trọngghi nhận tên tuổi, sự nghiệp một nữ chủ bút nổi tiếng - Nhà thơ Sương NguyệtAnh.

 Sương Nguyệt Anh tên thật là Nguyễn Xuân Khuê (có nơighi là Nguyễn Ngọc Khuê hay Nguyễn Xuân Hạnh) sinh ngày 8-3-1864 tại Ba Tri(Bến Tre). Bà là con gái thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và được sinh ravào thời kỳ nhà thơ về Bến Tre nương mình "cho tròn phận tóc da"trong những ngày chạy giặc. Lớn lên giữa cảnh đất nước đang rên xiết dưới gótquân thù; bên người cha - nhà thơ, chí sĩ tài năng, giàu khí tiết, suốt đờicùng ngọn bút không mệt mỏi đấu tranh vì nhân đạo, vì tự do và người mẹ hiền thục,tảo tần, bà sớm thừa hưởng được chí cha, đức mẹ, có bản lĩnh hơn người và luônnuôi ước vọng tạo nên "một sự nghiệp". Từ nhỏ đã nổi danh tài sắcnhưng bước vào đời, bà không gặp may mắn. Lấy chồng năm 24 tuổi, được mấy nămthì chồng chết, bà ở vậy nuôi con gái. Lúc này cha mẹ đều đã qua đời, cảnh ngộcô đơn lại càng thêm neo đơn, người góa phụ Xuân Khuê điểm thêm một chữ"Sương" trước tên hiệu "Nguyệt Anh" là vì thế!...

 Sương Nguyệt Anh đã toan an bài với số phận, không màngtới thế sự, nhưng tài năng, nhiệt huyết của bản thân cùng cảnh đời đau thươngmà sôi động lại chẳng thể làm bà dửng dưng. Những năm đầu thế kỷ XX, khi PhanBội Châu phát động phong trào "Đông Du" bà nhiệt tình hưởng ứng, báncả đất vườn lấy tiền gửi giúp du học sinh. Phong trào bị đàn áp rồi thất bại,bà vẫn không nản lòng, tiếp tục tìm mọi cách góp sức mình vào công cuộc cứu nước...

 Năm 1917, được một nhóm chí sĩ ái quốc mời ra làm chủbút tờ báo Nữ giới chung (tiếng chuông của nữ giới) - tờ báo đầu tiêncủa phụ nữ Việt Nam,bà vui vẻ nhận lời ngay. Tòa soạn báo đặt tại số nhà 15 đường Taberd, Sài Gòn(nay là đường Nguyễn Du, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Ngày 1-2-1918, tờ báora số đầu tiên và bà chính thức trở thành nữ chủ bút đầu tiên trong lịch sửViệt Nam.Báo phát hành định kỳ vào ngày thứ Sáu hàng tuần, với 18 trang nội dung và 8trang quảng cáo. Báo có các chuyên mục là phần xã thuyết, phần văn nghệ, phầndạy gia chánh, phần học nghề, cùng các trang cách ngôn, lời hay ý đẹp và mẹ connói chuyện. Có thể nói, Nữ giới chung là tờ báo đầu tiên ở nước ta chútrọng đến việc dạy nữ công, đức hạnh phụ nữ và phê phán luật lệ khắt khe đốivới nữ giới thời đó, đồng thời chủ trương đấu tranh mạnh mẽ cho vấn đề bìnhđẳng nam - nữ. Suốt hơn hai chục số báo, bà dành trọn cả tâm huyết và tài năngcủa mình để góp phần chấn hưng tinh thần nữ giới nước nhà. Bà chẳng những cóvai trò rất lớn trong việc làm thức tỉnh và cổ vũ các độc giả nữ trước thời thếmới, mà còn làm đa dạng, phong phú, hoàn thiện thêm nền báo chí non trẻ củaViệt Nam khi đó, đồng thời tạo tiền đề tốt cho hàng loạt báo chí về phụ nữ saunày xuất hiện như Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm... Đến tháng 7-1918 tờNữ giới chung phải đình bản, bà lại về Ba Tri, theo gương cha ngày trước- dạy học, bốc thuốc và sáng tác thơ văn cho tới ngày tạ thế (20-1-1921).

Sương Nguyệt Anh thuộc thế hệ nhà thơ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷXX, làm thơ bằng cả chữ Hán, chữ Nôm và quốc ngữ. Giọng thơ cổ kính nhưng tha thiết,tràn trề nỗi niềm nhân thế trong sự cảm nhận sâu sắc, có phần bi phẫn mà ngangtàng:

Bể ái sóng ân còn lắm lúc,

Mây ngàn hạc nội biết là nơi.

Một dây oan trái vay rồi trả,

Mấy cuộc tang thương dễ đổi dời.

(Họa thơ ông Phủ Học)

Nhìn cảnh đời ly tán, non nước điêu linh, Sương Nguyệt Anh có nhữngvần thơ xót xa nhưng không yếu ớt, mà cứng cỏi, thể hiện cái nhìn tình máu thịtcủa một con người trong cộng đồng, cái nghĩa khí và trách nhiệm của kẻ sĩ thờiloạn - giống như cha bà khi xưa:

Phong cảnh mặc dầu chia đất khác,

Nắng mưa đâu cũng đội trời chung.

Quê người tạm gởi nhành dương liễu,

Đường hoạn xin tròn phận kiếm cung.

(Tiễn ông Trần Khải Sơ từ Bến Tre đổi về Sa Đéc)

 Viết về cuộc đời mình, lời thơ của Sương Nguyệt Anh baogiờ cũng điềm tĩnh nhưng khảng khái và ẩn chứa tự hào riêng của một "trangtiết phụ", dẫu gặp cảnh đời éo le, nhân duyên trắc trở, bị cuộc sống xô đẩyvà dẫu luôn vươn tới cái mới, cái hiện đại, thì vẫn giữ được lòng kiên trinhtruyền thống - bản tính đáng quý của người phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay:

Ngọc ánh chi nài son phấn đượm,

Vàng ròng há sợ mất màu phai.

Ba giềng trước đã se tơ vắn,

Bốn đức nay tua nối tiếng dài.

Dẫu khiến duyên này ra đến thế,

Trăng thu dẫu xế rạng non đoài.

(Họa thơ ông Bái Liễu ở Mỹ Tho)

Tình thương, sự hòa đồng và cảm thông, chia sẻ với những người cùnggiới, cùng cảnh được thể hiện khá đằm thắm trong thơ Sương Nguyệt Anh. Năm 1914,cuộc chiến tranh Thế giới lần thứ nhất bùng nổ, thực dân Pháp mộ lính Việt Namđưa xuống tàu sang Pháp tham chiến. Sương Nguyệt Anh đã phản kháng bằng một bàithơ chữ Hán da diết, làm thay lời người vợ than khóc cho cuộc chia ly không hẹnngày về, cho nỗi nhớ mong khắc khoải (bản dịch tiếng Việt sau đây của nhà thơNguyễn Đình Chiêm - em trai bà):

Cỏ rạp sân thềm liễu rũ hoa,

Chàng đi bao thuở lại quê nhà.

Nửa đêm trăng xế lòng ngao ngán,

Chiếc gối quyên gào lụy nhỏ sa.

Ải bắc mây giăng che bóng nhạn,

Vườn xuân nắng tạc ủ mày nga.

Nhớ nhau mấy lúc chiêm bao thấy,

Nghìn dặm lang quân biết chăng là?

Sương Nguyệt Anh còn nhiều bài thơ chữ Hán và chữ Nôm khác (như Thưởngbạch mai, Điếu Khuất Nguyên, Ngày Đoan dương) và một số bài vè (như Vètiểu yêu...). Nhìn chung, ngôn ngữ và hình tượng chưa có gì quá độc đáohoặc mới mẻ, nhưng cái tình sâu rộng, nồng nàn, chân thật và sự cảm nhận tinhtế khiến thơ bà mang một nét riêng dễ mến và dễ chinh phục người đọc.

Bằng tất cả tài năng, tâm huyết, suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp chung,Sương Nguyệt Anh đã để lại trong tâm trí người Việt Nam hình ảnh đẹp về một nữchủ bút đầu tiên, một nhà thơ đa tài và một người tiên phong trong cuộc sốngđấu tranh vì quyền lợi, địa vị của phụ nữ nước nhà. Ngày nay, tên bà được đặtcho nhiều đường phố, trường học, hội bút, câu lạc bộ... với niềm trân trọng, tựhào sâu xa. Nhà thơ Nguyễn Liên Phong (tác giả Điếu cổ hạ kim thi tập)đã dành những lời thật xứng đáng khi viết về Sương Nguyệt Anh:

Gương tỏ đời nay trang tiết phụ,

Lâu đài tiếng tốt tạc non sông.


Xuân Hồng