Buổi nói chuyện của một học giả tuổi gần trăm

Chúa nhựt 1 tháng Bảy 2018 tôi tham dự một buổi thuyết trình của Giáo sư Trần Ngọc Minh, cố vấn của Viện Việt-Học, CA về Ngữ Học. Giáo Sư Ninh trước quốc nạn 1975 là GS môn giải phẫu tại trường Đại Học Y Khoa Sàigòn và là nhà văn hóa có những sách viết về đạo Phật, Đức Phật Giữa Chúng Ta (Lá Bối, Sg, 1972), về cấu trúc của tiếng Việt, Cơ Cấu Việt Ngữ (Lửa Thiêng, Sg, 1972, 1975 xb) theo cái nhìn mới mẻ mà nay gần nửa thế kỷ sau chưa chắc có quyển nào cùng loại vượt được.

Nay Giáo Sư sau một thời gian dài nghiên cứu, nghiền ngẫm để bổ túc thêm bộ Cơ Cấu Việt Ngữ đã cho ra đời hai bộ sách đồ sộ như:
  • Ngữ Pháp Việt Nam, Viện Việt-Học, 1917.
  • Ngữ-Vựng tiếng Việt Đầu Tiên, Viện Việt-Học, 1917.
Ngoài ra quyển:

Tố Như và Đoạn trường tân thanh cũng là một quyển sách đặc biệt do tác giả ứng dụng sở đắc của mình về ngữ học cơ cấu để một số từ ngữ của Nguyễn Du.

Nay, có lẽ nhận thấy rằng mình cần giải thích để đường hướng nghiên cứu ngữ pháp của mình tới thêm nữa đối với người để ý môn này, GS Ninh đã đăng đàn buổi nói chuyện tại Viện Việt-Học với đề tài:

Cơ Cấu Việt Ngữ theo Chomsky

Người nghe hầu hết đều xúc động về hai điều:
  1. Một cụ già ngót nghét một thế kỷ tuổi đời, chân đi không vững, lên diễn đàn cần phải có người giúp đỡ thế mà ngồi liên tục hơn hai giờ đồng hồ để trình bày rõ ràng về một đề tài chuyên môn khô khan khó nuốt. Giáo sư Ninh, với giọng nói còn rất mạnh, đã trình bày khúc chiết, những chuyên đề của Ngữ học mới, rất mới, với những nhận xét đặc biệt từ ngôn ngữ nói chung, từ chữ dùng trong văn chương Việt Nam nói riêng đến những vấn đề nho nhỏ của chữ Việt như: Chữ Việt xưa không có chấm câu, nguồn gốc vài ba từ xưa mà GS bất chợt nói qua khi bàn về chuyện khác.

    Tất cả đều có tính cách làm bật dậy những suy nghĩ, những phản ứng (chấp nhận hay phản đối) từ người ngồi nghe ở phía dưới.

  2. Áp dụng học thuyết của Chomsky vào trường hợp ngôn ngữ Việt Nam, GS Ninh nhận xét về nhiều điều có thể nói là mới lạ đối với ngiười văn chương không đi vào con đường ngữ học hiện đại.

    Ông xác quyết rằng xưa người Việt Nam - chịu ảnh hưởng của Tàu - viết không chấm câu, cũng không có dấu phết để ngắt đoạn mà chỉ viết phân cách nhóm  sáu chữ và nhóm  tám chữ…. cứ như thế cho tới hết cuốn truyện. Nay ta đọc phải hiểu sự ngắt đoạn mới hiểu rõ ý tác giả. Sau chữ rằng trong truyện Nôm chẳng hạn. Lấy thí dụ trong sách Tố Như & Đoạn trường tân thanh của ông:

    Kiểu rằng: Những đấng tài-hoa
    thác là thể phách, còn là tinh anh.

Ta sẽ hiểu hơn lý thuyết và chủ trương của ông khi quan sát cách viết câu lục bát trên. Thêm hai chấm (:) sau chữ rằng. Sau đó vì dẫn lời nói của nhân vật nên chữ những được viết hoa cho con chữ N(hững).

Đi xa hơn, nguyên câu nói dài của một nhân vật ông chủ trương trình bày khác với số đông thông thường xưa nay. Chẳng hạn ở trang 70 trong quyển Tố Như và ĐTTT nói trên:

Một lời đã chót tâm giao,
dưới đây có đất, trên cao có trời,
dẫu rằng vật đổi sao rời,
tử sinh, cũng giữ lấy lời tử sinh.
(Dẫn chứng nầy, hôm nói chuyện, GS Ninh nói phớt qua và cho thí dụ khác, nhưng cũng là tương tợ.)

Tôi tâm đắc - và đồng thời thắc mắc - khi ông nhắc lại vài thí dụ kinh điển trong văn chương và giải thích vai trò của một vài từ đặc biệt do chỗ đứng của nó trong câu:

Giang san một gánh giữa đồng, thuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ chăng?

Chữ ứ hự ở đây, theo GS Ninh là động từ vì nó đi sau chủ từ thuyền quyên. Ý kiến nầy hay quá chứ, đó là chưa kể chữ ứ hự chính nó đã hay, chưa thấy trường hợp tương tợ trong văn chương Việt.

Thính chúng và tôi thắc mắc, do suy nghĩ chịu ảnh hưởng của văn phạm xưa đã thâm căn: Có những từ ẩn, từ hiểu ngầm (sous- entendu) trong câu nói câu viết, chúng không cần có mặt nhưng ai cũng hiểu chúng đang lãng vãn ở đây. Từ đó ta có thể hiểu câu trên theo nhiều cách:
  1. …..Thuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ chăng. Chữ ứ hự là động từ, theo TNN.
  2. …. thuyền quyên [bị, có] ứ hự. Ứ hự là trạng từ.
  3. , …thuyền quyên [ở trong tình trạng, mang tâm trạng, ở vào trạng thái,,] ứ hự. Vậy thì ứ hự là trạng từ, hoặc là tĩnh từ…
Tôi tâm đắc vì từ đặc biệt ứ hự có thể mang áo là động từ, là trạng từ là gì gì khác, hay thậm chí kết hợp với thuyền quyên thành nhóm chữ danh từ: thuyền quyên ứ hự tương tự như nhóm chữ danh từ hồng nhan đa truân thì câu nói của người phụ nữ kia với quan ngài Nguyễn Công Trứ cũng đã làm cho ta động não và thấy được cái hay ho của những từ ngữ đặc biệt trong văn chương Việt.

Một thí dụ khác GS Ninh đưa ra mà tôi nghe lào xào ở thính giả không đồng tình:

Lấy chồng từ thuở mười ba,
Đến khi mười tám thiếp đà năm con.
Ra đường thiếp hãy còn son,
về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.

GS Ninh nói rằng từ đã và biến thinh của nó thành đà là tiếng chỉ tình trạng quá khứ của động từ. Vậy thì trong đoạn thơ trên, hai chữ năm con đã được biến thành động từ, nói cách khác, trong trường hợp nầy từ năm con phải hiểu là trở thành năm con.

Cũng như trường hợp trên, tôi nhớ đến sự giải thích chủ từ ẩn, động từ ẩn (có, có được, có sanh …) và năm con được coi như danh từ làm túc từ cho đà (có).

Tôi ngồi nghe và thâu lượm những kiến giải, những xác quyết rất đặc biệt như:
  1. Người xưa không có chữ nếu. Văn chương xưa cho thấy một chữ nếu ở thơ Nguyễn Trãi thôi, không thấy ở đâu khác. Người xưa dùng từ ngữ tương đương của nếu là ví, ví bằng, ví dầu, ví như, dầu, dẫu, dầu mà,  dầu rằng…
  2. Chữ nếu là chữ nêu (cây nêu) mà ra.
  3. Chữ nghỉ mà cụ Hoàng Xuân Hãn cho là từ của vùng Hà Tĩnh là từ chữ người mà ra.
  4. Chữ Tàu chỉ China ngày nay do chữ Tần mà ra. (Điều nầy hôm chúa nhật đó GS Ninh không nhắc lại vì không có dịp nhưng tôi đọc đâu đó lời xác quyết nầy của cụ).
Những ý nho nhỏ trên chắc chắn đã được hoài thai từ những suy ngẫm lâu dài không phải là thứ để cho chúng ta phản bác hay chấp nhận dễ dàng mà không suy nghĩ. Đó là những cái gân gà mà Tào Tháo xưa nhai gặp: ngon thì có ngon nhưng khó nuốt.

Cụ Giáo Sư Ninh, bậc thầy của tôi, người ký nghị định cho tôi vào ngạch thầy giáo Trung học Đệ Nhị Cấp thời xưa, 1965, vời vốn kiến thức văn học, ngữ học bao la, người nghe chúa nhựt hôm đó ra về chắc chẳng còn nhớ bao nhiêu vì đề tài quá bao la, nhưng ít ra cũng thích thú ở một vài chi tiết mà mình đắc ý hay tạo thành đề tài cho mình suy nghĩ.

Đó là điều mà người diễn thuyết nào cũng muốn nhưng chưa chắc nhiếu người làm được.

Để bài nầy đỡ khô khan tác giả xin ké bài thơ mình làm khi tưởng đến dáng kiều thơm:

Nắng liếm bờ rào bông bụp đỏ,
Em thẩn thơ dáng nhỏ bên rèm.
Ta, người đây đó gần thêm,
Tai mơ tiếng khẽ dịu mềm kiều nương.
(NVS, Sàigòn 1964)

Nhưng thẩn thơ trong trường hợp nầy là động từ, tĩnh từ, trạng từ?