Tản mạn trước khi vào sách Tỉnh Mê Một Cõi

1. Tôi mất mấy năm từkhi có được bản Nôm Hứa Sử, hăng say màymò đọc, đến khi in xong sách nầy lần thứnhứt. Lý do có nhiều. Ngoài sự khó khăn trong chuyệnphiên âm do sách xưa chữnghĩa thâm thúy, từ ngữ chuyên đạo ẩn tàngnhiều tư tưởng cũng như nghĩa cổ màtôi càng đọc, càng chú giải càng thấy rằng cầnphải suy nghĩ thêm, chú giải thêm để giúp chongười đọc dễ hiểu hơn, còn có sựbăn khoăn của tôi về sách Toàn Tập Toàn NhậtQuang Đài của thầy Lê Mạnh Thát. Sách nầyđã in hai lần, lần trước vào năm 1979, lầnsau gần đây, năm 2005. Lần nào thầy Lê MạnhThát cũng xác quyết HứaSử Truyện Vãn là tác phẩm của Hòa ThượngToàn Nhật. In sách nầy mà không nói gì đến tên tác giảToàn Nhật coi có dị lắm không?

Rồi đầunăm ngoái (2014) tôi hân hạnh gặp thầy Lê MạnhThát,có nói về suy nghĩ của mình, thầy cười thôngcảm và khuyến khích tôi cứ tự nhiên. Mỗi ngườicó lý giải riêng, cách đọc và hiểu vấn đềriêng, người đọc được biết thêmđiều gì đó cũng còn tốt hơn là sách làm dang dởrồi bỏ xó phó mặc cho bụi bặm thời gian.Hơn nữa, thầy nói “cungcấp cho đời thêm một bản Nôm tốt cũnglà có công và cần thiết” cho việc bảo tồnvăn hóa. Người xưa tốn thiệt nhiều thờigiờ và công sức mới sao chép được một bản Nôm, nay ta in một lần vài ba trăm bản lạicó phiên âm và chú giải sao lại không in?  Tuy vậy, tôi không thể đivào các chi tiết Phật học hay triết lý Phật giáovì khả năng hạn hẹp của mình về vấnđề nầy, chỉ có thể căn cứ trên bảnvăn Nôm và suy nghĩ về những cách đọc củangười đi trước mà làm chuyện phiên âm lạivà chú giải theo đường hướng soi sáng bảnvăn về mặt văn học và ngôn ngữ. Công việcnhằm hi vọng giúp cho người đọc hiểu rõhơn, hiểu đúng hơn nội dung tác phẩm.

Các hữu kỳphận! Biết đến đâu thưa đếnđó!

Hứa SửTruyện đích thực là truyện của một ngườitỉnh thức khi sốngtrong Cõi Tỉnh Mê của trầnđời. Bấu víu vào đời, tranh danh đoạt lợi,sống theo bản năng con người là sống Kiếp Mê (Muội) củađời chúng sinh huyễn hoại. Thức tỉnh đểgiũ bỏ, dứt khoát với những hệ lụy,bước vào đường hạnh tu là sống Đời Tỉnh (Thức)của đạt giả thường tồn. Hứa Sửđã sống đời tỉnhthức. Toàn văn là hành trạng tu hành của ông và mộtngười có thể nói là kiếp sau của ông, cho nên tôilấy ý toàn văn mà gọi truyện Hứa Sử là Tỉnh Mê Một Cõi. Cõi đời đồng thờilà Cõi tu tùy theo lối sốngcủa từng người. Cõi đời của chúng sinhvới những ham muốn, tranh giành, phiền muộn…để rồi sẽ tiếp tục những kiếpsau, kiếp sau. Cõi tu của thiểu số chúng sanh giác ngộlẽ đời lẽ đạo để dứt bỏnhững ràng buộc và ngăn trở của đờiđể bước vào cuộc sống tu hành mong dứtđược sự kiện kiếp sau, kiếp sau.

Tác phẩmhơi dài vì tác giả muốn đưa vào đấy hầuhết những vấn đề căn bản của sựviệc tu hành:

-Tu ởthành thị hay lâm tuyền, chốn nào có lợi cho sựtu, người tu?

-Trong khi tu tậpcó thể gặp những ma chướng, phiền nào,đàm tiếu, thái độ của người tu hành phảinhư thế nào?

-Thầy dạyđạo của mình lỡ sa đà, vướng vào vòng tụclụy, thái độ mình là đệ tử hành sử saocho phải đạo?

-Nướcnhà có loạn, mình có tài an bang, nên cầm quân dẹp giặcchăng, nếu cầm quân thì phải làm sao giới hạnsự sát sanh đến tối thiểu?

-Muốnđi tu mà vợ con cản trở, đồng liêu thuộchạ khuyên bảo nên ở lại giúp nước phò vuathì mình phải làm gì?

Còn nhiềuvấn đề thực tế khác mà người đọcvới căn cơ và kiên định sẽ thấy và vạchcon đường theo để thực hành một đờisống Tỉnh Thức cho riêng mình.

Sáchđược một vị chân tu nào đó viết ra trêngiấy để lại trong chùa nào đó, Hòa ThượngToàn Nhật với hạnh ngộ được đọc,giác ngộ bèn chấp bút, kêu gọi khắc in. Không biếttrước đó đã có ai sửa thêm gì không, không biếtNgài Toàn Nhật đã thêm vào bao nhiêu tư tưởng củamình, sửa biết bao câu văn trong nguyên bản, nhưngchắc chắn rằng những gì tác giả đi trướcnói đã được Ngài giữ ít nhất là ở phầncốt lõi. Vì vậy tôi chủ trương tác phẩm nầy thuộc về công đức chungcủa các thiền sư hơn là riêng một vị.Điều nầy cũng không có gì sai trái vì thật ra tácphẩm văn chương và nhất là tác phẩm tôn giáo củaViệt Nam hầu hết đều vô danh. Vô danh do nhiềulý do, trong đó có sự cốtình của tác giả gạt bỏ tên mình ra khỏi tác phẩmvì coi cái tên của mình vốn không quan trọng. Từ sựvô danh đó, tác phẩm được người nầyngười nọ thêm thắc, sửa đổi, khiếncho đa phần tác phẩm của người Việt trướcđây, khi văn minh Tây Phương chưa thống nhập,là công trình của đám đông không tên nhiều hơn làthuộc về một cá nhân cụ thể. Đối vớimột nhà sư, sự vô danh trong việc trước táccòn quan trọng hơn vì mang ý nghĩa triết lý về kiếpnhân sinh không trường tồn, chỉ là một mắtxích trong chuỗi thời gian thường tồn củacái chơn linh mỗi người.

Kiếp người là mộtsát na tạm bợ, là đời sống của sươngsa, sấm chớp. Lạc vào cõi trần thế nầy mộtđời chỉ là vài giây phút so sánh với muôn ngàn kiếpcủa cái chơn linh, chơn giác nên sẽ ra đi không lưuảnh, ở không nhất thiết lưu hình, trướctác vì vậy được phóng ra đời mà không cầnlưu danh.

Quan niệm vô danh về tác phẩm củamình nằm trong quan niệm lớn hơn mà quyển Tỉnh Mê Một Cõi nầycó nói, dầu chỉ phớt qua. Khi một vị caotăng sắp tịch đọc câu kệ rằng mình chết chỉ là từ bỏcái thân hư huyễn, cái áo lớp ngoài của một đời nầy,trong khi đó cái tánh chơn giác, cái linh hồn, cái làm nên chuỗikiếp kiếp của con người thì bao giờcũng vẫn còn:

      Thầy nay tuy bỏ huyễn khu (thân xác ảohuyễn),

      Một tánh chơn giác muôn thu n còn.

Đây là tư tưởng chánh củaquyển sách. Có thể không mới – tìm một tư tưởngmới trong dòng đạo lưu truyền mấy ngànnăm thiệt quá khó – nhưng quan trọng khi nằm trongmột tác phẩm văn học phổ biến tới mọitừng lớp đại chúng, mộtquyển kinh đời lưu thế, chớ không phảimột quyển kinh đạo, vốn giới hạn trongsự giao truyền, chuyển tải tư tưởng.

 

2. Có nhiều chứng cớ đểxác định rằng TỉnhMê Một Cõisản phẩmcủa thế kỷ 18, dầu bản khắc chúng ta cóđược đề năm Canh Thìn (nhiều xác suấtlà 1880), chẳng hạn như: 

(1) Thỉnh thoảng có xen kẽ nhữngcâu thơ thất ngôn:

                  Khenrằng phước đức có dư,

                  Chamẹ biết đạo con tu thêm mầu.

                  Thầy chớ rầu mà lòng bốirối,

                  Cha mẹ đà vềcõi Thiên tiên.

hay:

                  Tạo chùa chiền, làm cầu,thí giếng,

                  Cùng đắpđường tích thiện phóng sanh.

hoặc:

                  Táng thầy rồi ravô thơ thẩn,

                  Lòng băn khoăn ghethảm sầu tây.

hay:

                  Giác tánh không hình thànhchánh quả,

                  Cõi Diêm vương khóquá người ôi!

nhữngcâu thất ngôn là biến thái của thể loại vănchương đời Lý Trần, của Tô Công Phụng Sứ,của thơ Nguyễn Biểu, thơ Vương Tường,thơ Bạch Viên Tôn Các…

(2) hiện diện nhiều từ xưa và cách dùng xưa. 

Chẳng hạn như ròng thiền tỉnh tu (tu thiền),thiền song (ở chùa), nănnỉ (bàn bạc, thảo luận), bỏ rãy (bỏ lúng, bỏ phế), lời thế bia bài (miệngđời nói xấu), changchang (quá nhiều), trốithây (kệ họ), đè(đoán chừng, phỏng đoán), tráo trở (thay đổi), khoản thầy (cách mặt thầy), bàn luận vừa thôi (suynghĩ xong), dong xá (tha thứ),người vạy vò(người không ngay thẳng), bộnnhộn (lộn xộn), khẳm(đầy, nhiều, no), dónlại (tóm lại), toa (toan tính, suy nghĩ), chưa siêu (chưa hiểu rõ,chưa được thuyết phục), chầu (lúc), ngụcrạc (ngục tù), mồingon (món ăn ngon), tuông pha(công kích vô tội vạ), chấptrước (để ý, lấy làm điều), chân bước dần dà (chânlần từng bước chậm), làm đôi bạn lành (làm bạn thân), tay nầy (chính ta), nghĩ nào (hơi nào), phá của (bỏ tiền ra), đặng thời (gặpmay), lành nhơn (ngườilành, người hiền), tráilòng (bất bình), lên xuốngđời đời (luân hồi), bát ngát (buồn bả quá lắm), đâm đót(nói châm chích, nói chọc giận)…

(3) ghi được cách nói xưa và nhứt là những từ đơn chỉ dùng ở tác phẩm trướcthế kỷ 19, sau đó thì đã trở thành từ kép.

Đặngchi(kiếm được món gì), tưởng đi viếng thầy (chỉ nghĩ đếnchuyện đi thăm thầy), vắngchầy (vắng mặtlâu), thế đi chẳngchầy (coi bộ chết không lâu), lòng nỡ yên đâu(không thể làm lơ), bỏ trong Phật pháp (bỏ Phậtpháp), việc trong tội phước (việc tội phước),cậy(nhờ), nắm tay (chắptay), thế thì(người đời), do sự (lý do), buông tình (thả lỏng tình cảm, để bịlôi cuốn vào chuyện xấu), ngửa rước (rước cách trịnh trọng)….

Sự kiện nầy thỉnh thoảngthấy được trong tác phẩm ở Nam thờigian sau đó không xa, chẳng hạn từ ải ô là tiếng kêu vì đau đớn, theo HTC,ta thấy trong Quan Âm TếĐộ, t147, 5700: Oan hồnbốn phía đạp xô/ Trang vương chắc lưỡiải ô than dài.

(4) Những bài văn tế, những bài thơ Đườngchen lẫn vào trong bản văn cũng là vết tích củathời đại, chứng minh rằng tác phẩm nầyxưa hơn Đoạn TrườngTân Thanh, Phan Trần, Lục Vân Tiên để kéo vềcùng thời gian với sự xuất hiện của Hoài Nam Khúc, của Tư Dung Vãn, của Ai Tư Vãn

(5) Những câu thơ lục bát có vầnở chữ thứ tưnhan nhản trong toàn tác phẩm cũng là bằng chứng củasự ra đời sớm trong dòng văn học khi tác phẩmdài bằng thể lục bát chưa thiệt sự địnhhình chứ không phải là sự non tay nghề của tác giả.

Chẳnghạn:

      Thương thầy khổ hạnhnúi non,

      Bây giờ chẳng còn lên xuốngviếng thăm.

hay:

      Đến khi về đã hầugần,

      Vua sai hai tán ra thành tiếp nghinh.

hoặc:

      Tội kia biết đáng mấythây,

      Nhưng mà ngày rày nó đã đầuta.

hay:

      Triệu Tân nước mắtrưng tròng,

      Cúi trước sân rồng vạntuế tung hô….

 

3. Một điều đáng nói nữalà tác phẩm nầy chắn chắn là công trình tim óc và chấpbút của những ngườiMiền Nam với nhiều từ ngữ đặc biệtcủa vùng Nam Kỳ Lục Tỉnh được sửdụng nhuần nhuyễn, chỉ có mặt trong tự vịcủa Huình Tịnh Của mà những tác giả Bắc, Trungtrước đó hay sau đó nếu có dùng thì cũng là rấtít, chỉ thấy một, vài lần rồi không thấy nữa.[Chẳng hạn như từ bông(hoa) ai cũng nhận là từ Nam nhưng câu ca dao nói vềcông chúa Huyền Trân đã có xài chữ nầy rồi. Từmần cũng vậy, thấytrong bài thơ Hỏi MặtTrăng của Lê Thánh Tông:

      Buổitối mần chi soi gác tía

      Ban ngày sao lại thẹn vầngson?

(Dĩ nhiên là những lý luận trên vớisự dè dặt rằng câu ca dao thiệt sự xuất hiệnkhông xa quá thời của Huyền Trân và bài thơ của LêThánh Tông là của chính ông cũng như người đọcvà viết Nôm đã đọc, viết đúng.)

Nói rằng tác phẩm của MiềnNam là căn cứ trên tổng thể. Người đọctinh ý sẽ thấy trong tác phẩm tính chất Nam vượttrội không chỉ về từ ngữ mà cả vềcách diễn tả, về sự dùng một nhóm chữđặc biệt không thấy ở miền ngoài..

Một vài từ chắcchắn là đặc trưng của Bắc, Trung (nghỉ, mô) có mặt ít oi trongtác phẩm chỉ là vết tích còn lại của sự didân Nam tiến thời các chúa nhà Nguyễn, chưa biến mấtkhi định cư trong Nam vì cách thời gian di dân ban đầukhông bao nhiêu lâu, cách nói mới hay từ ngữ chịu ảnhhưởng của vùng đất mới chưa có dịptác động mạnh mẽ. Nhữngchứng cứ nầy chúng tôi thỉnh thoảng nhậnxét ở phần sơ chú.

 

4. Tư tưởng chánh trong tác phẩmlà tư tưởng của đạoPhật bình dân. Nói là bình dân vì người ta hiểuđạo Phật theo những cách sau: (1) làm lành lánh dữ,nói cách khác là hành thiện (2) nguyên lý nhân quả chi phốicách hành xử của con người, nếu ai đó làmlành thì sau nầy sẽ được lên cõi Trời, cõi Phật,không còn bị vướng mắc trong lồng trầnđể luân hồi nữa, nếu ai làm ác sẽ bịtrị tội ở Địa ngục sau khi chết. (3)tu hành có hai cách hoặc là tu phướcnhư vợ chồng Đào thị, đến chùa làm Phậtsự, kính thầy, tạo thiện duyên, không cần biếtkinh kệ, chỉ chuyên cần niệm A Di Đà Phật làđủ, hoặc là tu huệnhư Đổng Vân, như Hứa Sử, cát ái ly gia, bỏhết quyền chức trong đời mà vào chùa, sốngđời sư sãi, đọc kinh sách Phật đểtìm hiều sâu hơn. Trong cả hai cách tu điềucăn bản là tin tưởng rằng cuộc thế nầylà huyễn, thân hình ta cũng là huyễn. Dĩ nhiên các thầytu huệ nếu đào sâu những gì kinh kệ dạy, thựchành và sống với những điều đó thì trởthành người theo Phật đạo chơn tông, chơntruyền, đã theo Phật đạo, không còn là ngườitín tu theo đạo Phật bình dân nữa.

Trong những điều dạy, Tỉnh Mê Một Cõi chỉ nhắcđến chuyện tu mà không khuyến khích chuyện mởchùa, không nói đến chuyện xây chùa lớn nhỏ vốnlà nỗi lo lắng đời đời của sư sãikhắp mọi nơi. Điều nầy có lẽ nhữngngười viết đã thấy rõ rằng chấp vàochuyện xây dựng chùa là chấp vào những sinh hoạt‘chùa sự’ không còn đủthời giờ để thực hành ‘Phật sự’.

Người tu hành đồng thờilà người dân của một quốc gia, cho nên thỉnhthoảng cũng có trường hợp khó xử: Phảihành động thế nào khi nước nhà có giặc ngoạixâm? Tác giả Tỉnh Mê MộtCõi đưa ra trường hợp của tướngtài Đổng Vân đi tu mà bị vua vời ra dẹp giặc.Nhận lời là sẽ dính vào chuyện giết chóc. Ông suynghĩ và sau khi được sự giải thích cùng chophép của sư phụ, đã xuống núi lãnh nhiệm vụcầm binh.  Điềuđáng nói là ông đã ra hịchvỗ về hứa tha địch trước khi ra trận,không phải trang bị quân mình bằng tư tưởngthù hận mà bằng tư tưởng phải giúp nước. Khi thắng trận (địchđầu hàng) thì ông đối xử với cựu địchbằng tình thương, bảo đảm giúp họ trởvề nước an toàn, giữ lời hứa... Tóm lại,mọi hành động của sãi-tướng ĐổngVân đều nhằm làm giảmthiểu sự tổn vong trước và sau cuộc chiến.  Bài học nầy người tuhành nào chắc chắn cũng học nhưng mấy aiđã theo. Mới đây một nhóm sư sãi Thái Lan tuyên bốgiết người chống lại nhân dân Thái là giếtnhững con quỷ, là nghĩa vụ của mọi ngườiThái, không là sát sinh. Ở Miến Điện cũng vậy,nhà sư Wirathu cổ vũ lòng thù hận với sắc dânthiểu số Rohingga theo Hồi giáo đang sống ởMiến. Tôn giáo và dân tộc có thể đối nghịch,nhưng người tu hành phải giảm thiểu nhữngđau thương có thể xảy ra là chánh. Câu nói quan trọngtrong Hịch Đánh Trịnhcủa Nguyễn Hữu Chỉnh sao mà giống với hànhđộng của Đổng Vân:

Gặp loạnđành dẹp loạn mới xong, ấy vương giảcó phen binh cách;

Hội thuậnthiên thế đừng được chửa, việcchinh tru lòng há muốn ru?

Hai câu quan trọngđánh giặc bằng vănđức trước khi giabinh nghĩ là phần quan trọng trong tác phẩm nói vềvấn đề xung khắc giửa tôn giáo và bình loạn:

  Trướcra văn đức vỗlòng,

      Bằng nó cứng cổ, sãidùng gia binh.

 

5. Một điểm đặc biệtlà tư tưởng trong nầy pha trộn giữa niềm tin Phật giáo, yếutố cơ bản, kết hợp với vài giáo điềucăn bản của đạo Nho, những di luân (彝倫). Chẳng hạn như Đề cao vai trò và vị thếcủa người thầy:

      Vua bèn phán hỏi lời nầy,

      Khỏi tội vì thầy bây có biếtchăng?

      Phải thầy mà chẳng chánh nhơn,

      Thời đã khinh báng Phật,tăng tung hoành..

Con người tu hành cũng cần cócăn duyên mới được gặp thầy xứngđáng. Nếu không gặp thầy ngu mê, không biết dạykinh kệ, lẽ đạo mà dạy những điềutầm thường như thắp nhang đèn, lạy Phật,bói toán thì mình có tu cũng vô ích thôi:

      Không duyên gặp thầy vô minh,

      Những ông trá huyễn tu hành,ăn chơi,

      Chẳng biết điều chi dạyngười,

      Cứ môn lạy Phật, hôm maihương đèn,

      Vào làm bổn đạo cầuduyên,

      Những ông làm vậy mình nên íchgì.

Chẳng hạn như ý niệm ngũ thường đượcđưa ra như là căn bản của sự sống tốtđẹp của con người mà không có nó thì là sai quấylớn:

      Năm hằng chẳng giữ,theo về súc sanh,

 Giảithích căn nguyên của tư tưởng nầy tôi cho rằngđó là sự pha trộn giữaquan niệm tôn trọng Phật, Pháp, Tăng với quan niệm đề cao Quân, , Phụ nói riêng. Thầydạy đạo của mình trên căn bản là một vịtăng cộng với vai trò của người thầykhai hóa cho mình, không thể vì bất kỳ lý do nào mà từbỏ, phỉ báng tăng, khi tăng đó đã là thầymình.

Ngoài ra ảnh hưởng của vài tưtưởng căn bản của Nho giáo như nhơn,nghĩa, lễ, trí, tín tác phẩm cũng bàng bạc nhữngý niệm Nho khác như tình bằng hữu chỉ ư tín,như thờ vua, như vị quốc, như đềcao tứ ân…

Nhìn cao hơn, thì tư tưởng pha trộnnầy là chọn thái độ sống chấp nhậnthân thể là hư huyễn để không bám víu, không phụcvụ cái thân con người nhưng cũng đồng thờitôn trọng những nguyên lý căn bản của luân thườngmà ta gọi là di luân vì ngườitu hành cũng đồng thời là con người củagia đình, của xã hội.

Tưtưởng quan trọng khác trong của tác phẩm là lý giảisự ly gia cát ái. Con ngườimuốn tu thì phải dứt khoát dứt bỏ tình giađình, tình chồng vợ, nghĩa vua tôi. Dứt bỏkhông phải buông rơi vô tình mà đểqua một bên tình cảm nầyhầu tinh chuyên tu hành. Hứa Sử khi còn trẻ đãđể tình con cha qua một bên mà dứt khoát theo thầyđi tu. Ông Đổng Vân khi làm quan đã ‘quyết một’từ quan để qua một bên chuyện thờ vua (sau nầycó chuyện thì vẫn giúp vua) cũng như để tình vợchồng, tình phụ tử qua bên cạnh mà dứt khoátđi tu. Về chuyện vợ chồng ông nói rõ: Cũng vì đôi chữ ái ân, Chonên lúng túng lồng trần khó ra. Ông biện luận rằngmình đi tu trước là giải thoát cho mình nhưngcũng là giải thoát cho vợ con. Vậy là trên căn bảnngười đi tu cũng còn có nghĩa phu thê, nhưng nayđã chuyển hóa dưới một hình thức khác hơn,phù hợp hơn do ảnh hưởng của Phật giáo.

Một đoạn dài của tác phẩmnầy là sự thưởng phạt của Diêm vươngvà sự đối thoại, giảng dạy của ông tađối với Hứa Sử mục đích là sẽ quasự lưu truyền của Hứa Sử sau nầy nhữnghành vi ăn ở cho phải đạo của con ngườinhư hành thiện, tránh ác sẽđược tuân thủ vì con người sẽ sợhãi những sự trừng phạt sau khi chết.

Ý niệm thưởng phạt hồncon người sau khi chết là sự đẩy mạnh tưtưởng nhân quả. Triết lý Phật giáo giảithích và đề cao lý nhân quả, nhưng Phật giáo bìnhdân như Tỉnh Mê MộtCõi, như Hồi DươngNhơn Quả, như QuanÂm Tế Độ Diễn Ca dùng quan niệm nhân quảđể đưa tới sự thưởng phạt củaÂm Ty hầu tạo cho con người ý niệm: Tham Thiên đường phải giữlòng lành, sợ địa ngục nên chừa thói dữ.Lòng tham, ý sợ đó không có gì đáng chê trách khi con ngườihướng thiện và chừa sự tàn ác…

 

6. Chúng tôi chútrọng nhiều đến sự giải thích những từkhó có thể làm cho người đọc hiều lầmhay không hiểu gì cả. Những quyển tự điểnxưa như Annam- Latinh củaLM Taberd, Việt Bồ La củaLM De Rhodes, Đại Nam QuốcÂm Tự Vị của nhà văn Quốc ngữ tiên phongHuình Tịnh Của rất ích lợi trong việc nầy.  Dùng chú giải tác phẩm Nôm thếkỷ 18, 19 thì  tự điểnHuình Tịnh Của (HTC) là thích hợp nhứt. Ta sẽkhông hiểu tòa khang là gì, hàng thuyền là sao, lọc đọc nghĩa gì nếukhông có tự điển HTC.

Câusau đây trong Tuồng Josephlà tuồng hát bội viết bằng Quốc ngữ củaTrương Minh Ký, in tại Sàigòn năm 1888, trg 16 xưakia tôi hỏi nhiều sinh viên ban văn chương ViệtNam, thường không được câu trả lời thỏađáng:

      Cuộc đời còn mất dườngnhư mộng,

      Người thấy nở tàngdát thể bông.

Hay gần hơn: Mộtcâu trong tác phẩm xuất hiện 36 năm sau đó, cuốntiểu thuyết Ơn NướcNợ Nhà của Cao Hải Để, Imp. De Centre, Sàigòn,1924:

“ĐàoThanh hỏi: ‘Té ra ông cũng gồm no võ nghệ nữasao?’ ”

Thiệt ra không phảichữ xưa, văn xưa mới khó hiểu, ngay cảthơ Nguyễn Bính, cũng không phải dễ thấuđạt đối với người thời nay. Chữnghĩa ra đời rồi thì chính nó càng ngày càng xa cách ngườiđọc. Thử đọc đoạn sau để tựhỏi chúng ta hiểu đến đâu những chữ yếm lụa sồi, dây lưngđũi, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, quần náiđen.

      Nào đâu cái yếm lụa sồi,

      Cái dây lưng đũi nhuộmhồi sang Xuân.

      Nào đâu cái áo tứ thân,

      Cái khăn mỏ quạ, cái quầnnái đen.

Việcchú giải cần thiết xiết bao! Ích lợi cho cảhai đàng: người làm việc chú giải và ngườiđọc.

 

7.  Điều đáng nói là sách Tỉnh Mê Một Cõi gồmhai phần rõ rệt. Phần đầu là cuộc đờitu hành của Hứa Sử từ lúc nhỏ đến khisiêu hóa để có được thần thông đi cứubạn, cứu song thân. Phần thứ hai là đoạn HứaSử, lúc nầy đã ở vai trò của bậc ThanhVăn, xuống trần đưa sách nói về sự luânhồi và giải thoát cho người đời đểhọ biết lẽ tu hành. Kết quả là độđược nhiều người trong đó có trườnghợp của Đổng Vân.

Không phải ngẫu nhiên màsách chia làm hai phần như vậy. Đó là cách diễn tảsự tự giácgiác tha. Mình tu cho viên thành là bướcđầu tiên. Sau đó bước thứ hai là cứuđời. Cứu đời gồm truyền đạtgiáo lý để độ kẻ mê lầm và diệt trừkẻ dữ. Đổng Vân đã làm tròn hai nhiệm vụđó: giải thích lẽ giải thoát cho vua cùng các đạithần và diệt giặc …

Trongtuồng hát bội Nôm Tây Du Ký,xuất hiện vào thế kỷ 19, Tôn Hành Giả đã nóivề hai mặt của giáctha khi phát biểu:

Vềtruyền đạo, (TDK, 73, 1b):

      No nao lãnh đặng chân kinh,

      Kẻo còn lận đận lộtrình gian nan.

Vềdiệt trừ kẻ dữ ác, (TDK, 71, 1a):

      Chídốc vương vai cửa Phật,

      Mỗ nay Hành Giả NgộKhông.

      Thoát hồng trần vốn chữaưng lòng

      Trừyêu quái mới toan phỉ chí…

CuốnTỉnh Mê Một Cõi vì vậykhông là một quyển kinhPhật, nó là một hóa thân củakinh điển đểđến thật gần với chúng sanh: Giải thích Phậtđạo bằng tín ngưỡng bình dân, diễn tảnhững huyền nhiệm của sự tu hành và vai trò của người tu bằnghình ảnh sống động. Nó cũng không phải truyệnthơ bình thường nói chuyện phong tình, mua vui, mua cười,chấp chảnh góp nhặt lời quê. Nó khác xa vớivăn chương của người đời, kể cảtruyện Kiều, khi cuối truyện không có những câucông thức kiểu:

      Lời quê chấp chảnh nêncâu,

      Chép làm một truyện đểsau mua cười.

                 (Phù Dung Tân Truyện, bản Xuân Lan, Hải Phòng,1911)

Nó đứng trung gian giữđạo và đời. Ở mặt nào cũng làm tròn vaitrò mà những người góp phần tạo ra nó đãđịnh trước trong trí…

8. Đọc TỉnhMê Một Cõi, tôi đọc chầm chậm, suy nghĩđể thấm thía ý lời, chắc chắn rằngđộc giả cũng vậy. Một số câu (1) vì từ ngữ xa xưa, (2) vìngười viết dịchthẳng các từ Hán Việt sang từ Nôm đểđến được số đông Phật tử hơn,(3) vì vấn đề không nằmtrong bình diện đời thường ta quen thuộcnên hơi khó hiểu, nhưng nếu chịu khó suy nghĩthì cũng vỡ lẽ.

 Sách được ra đời nhờsự ủng hộ tích cực của một học giảkiệt xuất, Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, Giáo Sưđồng ý viết một bài giới thiệu dài giảiquyết vấn đề văn học căn bản là thờiđại xuất hiện của truyện thơ lụcbát trong đó có Hứa SửTruyện Vãn tức TỉnhMê Một Cõi nầy, lại khuyến khích tôi nhiều lần:‘Xin đừng chú ý đếnsự tốn kém khi in một quyển sách khó lấy lạivốn mà hãy vui khi thấy một quyển sách tốtđược ra đời. Hơn trăm năm trướcông Trương Vĩnh Ký đã làm việc ích lợi nhưthế.’

Sựủng hộ tinh thần và vật chất của ngườiđồng cảm cũng nhiều, không thể nêu tên ra hết. 

Dĩnhiên người phiên âm từ bản Nôm ra quốc ngữtrước đây cũng đáng được trân trọng,đó là cư sĩ Tịnh Quan Võ Văn Liêng (1930) và thầyLê Mạnh Thát (1979); quí nhơn Nguyễn Văn Thoa nhượnglại tôi bản Nôm Giác Viên cũng là ngườiđược tôi ngưỡng mộ và thấy rằngmình cần ghi lại đây lời cám ơn chơn thành.Không thế, quyển TỉnhMê Một Cõi nầy không có dịp chào đời và riêngmình, tôi đã chẳng có cơ duyên nhìn lại một vài vấnđề chữ Nôm và hạnh tu tập theo Phật đạo.

Âucũng là cái duyên!

Riênglần in thứ nhứt, tháng 2/2015 tôi chưa thật sựvừa ý, có thể nói là hơi hổ thẹn, vì phần tự vựng chưa làmđược để có một bảng chữ Nôm của sách nầy, trong đó chắcchắn là có sự hiện diện của những chữmà hai quyển Tự điển Nôm quan trọng của ViệnViệt Học, CA (2009) và Nguyễn Quang Hồng, HN (2014) chưakịp vét cũng chưa thực hiện được vànhất là những câu/chữ cần chú giải còn cần phải được thêmnhiều để người đọc hiểu chính xáchơn, sự chuyển tải tư tưởng củatác phẩm đến người đọc thôngsuốt hơn.

Lầnin nầy, tháng 8/2015 một phần những bất cậpđó đã được giải quyết. Bảng tựvựng đã có, người đọc sẽ dễ dàngkiểm chứng coi trong câu nào chữ Nôm đó đượcviết thế nào, cũng là dịp để thấy cáchdùng từ khéo léo của người xưa. Chẳng hạnnhư từ chẳng đã được dùng ít nhứt là27 lần với những thuộc từ khác nhau.  Các chữ nào nếu hơi xưaxưa, nếu cách dùng khác ngày nay.. thường đượcgiải thích. Phần dẫn nhập cũng đượcviết thêm để những ý tưởng căn bảncủa tác phẩm dễ thấy hơn.

Quyểnsách ny lưu thếđược là nhờ sự ủng hộ của nhiềungười, những vị sư đã cho tôi có dịpđem tư tưởng người xưa đến ngườiđời nay, những người bình thường ngoài đờiđã giúp tôi cách nầy hay cách khác, hoàn thành quyển sách…

Xinthành thật cảm ơn tất cả.

 

NguyễnVăn Sâm,Victorville, CA, USA

(Noel 2014,  đầu năm 2015, nhữngngày nằm nhà dưỡng bịnh.

Viết thêm tháng 08 /2015).