Tuồng hát bội Đinh Lưu Tú 1: Xuống núi

Nguyễn Văn Sâm

Lời phi lộ năm 1997 của người phiên âm.

Bản phiên âm nầy là phần đọc quốc ngữ của truyện nôm Đinh Lưu Tú diễn ca do Minh Chương thị đính chánh, in năm Quang Tự giáp ngọ (1894).

Phủ Quốc Vụ Khanh của VNCH thời nhà Phật học Mai Thọ Truyền, năm 1971 đã có một phiên bản do nhà nho Đỗ Nhật Tân thực hiện. Bản ấy quý ở chỗ cung cấp nguyên bản nôm và có những chú giải tường tận, nhờ đó ta có cứ điểm để tìm hiểu về chữ nôm cuối thế kỷ 19 ở miền Nam. Chúng tôi phiên âm lần nầy chú ý nhiều hơn nữa về chánh tả quốc ngữ, từ địa phương, từ cổ và từ tố trong văn cảnh. Bất cứ tác phẩm nôm nào cũng sẽ không bộc lộ được sự đắc thể văn chương của nó, vẫn còn bị bỏ trong lãng quên của thời gian, nếu chúng ta chưa có được một công trình phiên âm quốc ngữ đúng như ý muốn dùng chữ của người viết trước đây. Phiên âm lại cũng chỉ vì muốn tìm hiểu mạch văn, muốn nhìn thấy rõ ràng cách biểu ý của người xưa trong lãnh vực tuồng, và nhất là chuyện vàng rơi nên tiếc, vốn không có ý vạch lỗi người đi trước. Nên nhắc lại, rất nhiều chữ ngờ ngờ khi bản nôm khắc quá đơn giản hoặc sai lầm, tôi đã so sánh lại với cách đọc của cụ Đỗ để được an tâm.

Sự đi trước nào cũng có những khó khăn và nếu làm việc với một chút nhiệt tâm và cẩn trọng thì công trình sẽ đáng quý biết bao vì đã mở đường gai góc ích lợi cho người đi sau. Xin cám ơn công trình của nhà nho Đỗ Nhật Tân và việc làm bảo tồn vốn cổ của Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa VNCH. (Nguyễn Văn Sâm, TX, 1997)

Viết thêm năm 2020.

Bỏ nhiều thời giờ làm xong tác phẩm nào đó trong máy lâu ngày khi thấy lại cũng ngùi ngùi bèn đem ra lau chùi lại trình diện cho người đời cũng có chút vui vui.

Bản tuồng Đinh Lưu Tú nầy là tường hát bội Nôm cổ điển, đọc dễ hiểu. Chỉ có một số nhỏ chữ khó hiểu dính dáng tới nghĩa quá xưa, thế kỷ 17, 18 hay toàn câu chữ Hán, chúng tôi đã cố giải quyết bằng những chú thích tuy đơn giản nhưng cũng đủ để người đọc trung bình hiểu…

Mỗi kỳ đưa lên hầu bạn đọc một đoạn ngắn đủ ý.

Nguyễn Văn Sâm

[1a] [1. Tạ thầy xuống núi.][1]

[Giáo đầu:]

Phượng Kỳ sơn hiến thoại,
Ngao Lạc thủy trình tường[2].
Mục giơ roi ngợi chữ thái bình,
Ngư gác mái ngâm câu thạnh trị[3].

[Lưu Tú:][4]

Quận Lương thành quê ngụ,
Đinh Lưu Tú là danh.
Song thân đà sớm cách non xanh,
Một mình hỡi ngụ nương sằn dã[5].

Lại nói:

Như tôi:
Văn phen người thất bộ,
Võ ví kẻ lục thao[6].
Từ theo thầy học đạo sơn cao,
Nhờ sư phụ giáo truyền văn võ.
Lần tay kể sáu thu có lẻ,
Đã chầy ngày[7] nhớ tới quê xưa.
Kíp vào[8] trình sư phụ đặng hay,
Ngõ về[9] chốn quê xưa tỉnh thám[10].

Chung Ly xướng:

Phụng sắc Linh Tiêu giáng hạ trần
Vọng lai Thúy Lãnh dưỡng nhàn an,
Thế giới trần ai vô bán nhiễm,
Diệu pháp tâm truyền tá minh quân[11].

Lại nói:

Vưng lời Thượng Đế,
Sắc hạ giáo dân.
Nương dựa tại Thúy san,
Hớn Chung Ly thị dã.

Lại nói:

Động tiền khán kiến,
Đệ tử đáo lai.
Nhơn sao khí sắc bi ai,
Dường có tâm tình áo não[12]? [1b]

Lưu Tú:

Dạ! Từ theo thầy học đạo,
Kể đã đặng sáu thu.
Chạnh tấm lòng nhớ tới quê xưa,
Vậy nên phải lời bày sư phụ.

Chung Ly:

Con đã muốn cố hương phản bộ,
Thầy cũng cho đệ tử mộ khan.
Khá lo việc cho an,
Mà kết duyên phu phụ[13].

Lưu Tú:

Dạ! Ngửa vưng lời sư phụ,
Cho tôi lại cố hương.
Cúi đầu từ dời gót vân sơn,
Cho con trẻ phản hồi kinh địa.

Hát nam:

Con trẻ phản hồi kinh địa,
Cúi đầu từ sư phụ dời chơn.

Chung Ly hát nam:

Thìn lòng nắm giữ khăng khăng[14],
Ngay vua dốc báo thảo thân vẹn đền.

Lưu Tú hát nam:

Dùng dằng tay khó phân tay,
Ơn thầy chưa trả nghĩa nầy dám quên[15]!

Chung Ly hát nam:

Dặn lòng kim thạch cho bền,
Kinh sư con tới động trung thầy hồi.

Lưu Tú:

Tôn sư đà phản bộ động trung,
Mau nhẹ gót trông chừng kinh địa.

Hát nam:

Nhẹ gót trông chừng kinh địa,
Quyết phen người lược hổ thao long[16].
Muốn cho tượng vẽ các lân,
Thẻ son dốc tạc sử xanh lăm dồi[17].
Bá [2a] tòng là tiết tháo trai,
Mưu quân trí chúa để tài an bang.

Lại nói:

Này! Nhìn xem cảnh vật u thanh,
Đoái thấy phong quang sắc sảo[18].

Như ta nay:

Từng ở chốn thú quê sằn dã,
Chưa quen nơi tửu điếm trà phường.
Xứ xứ văn ca nhạc chi thanh,
Chốn chốn thảy quản huyền chi lạc[19].
Hảo tai cảnh vật, khoái dã kỳ hoa.

Hát khách:

Bút toán cao miêu quân tử trúc,
Tuế hàn tiết tháo trượng phu tùng.
Thu thủy trường thiên đồng nhứt sắc,
Giá ban xuân cảnh di ngô tình[20].

___________________

CHÚ THÍCH:

[1] Những đoạn tóm lược nầy chúng tôi thêm vô cho dễ hiểu, nguyên bản không có.

[2] Hai câu: Chim phượng ở núi Kỳ sơn trình điềm lành khi múa, cá ngao ở sông Lạc thủy hiện lên như báo điều tốt đẹp. Ý nói thời thái bình nên điềm tốt hiện ra,

[3] Dân cư an lạc với cảnh người ngành nghề đều vui.

[4] Chúng tôi thêm vô tên nhân vật để tách biệt giữa phần giáo đầu – không phải tuồng - và bản tuồng chánh hiệu.

[5] Cha mẹ đã mất, một thân sống ở nơi quê mùa. Bản Nôm (BN) sơn dã 山野, nghĩ là sằn dã 莘野. Câu kế đã có chữ sơn liền ngay.

[6] Hai câu: Văn cũng hay như người bảy bước làm được bài thơ, võ cũng tương đương với tường rành tam lược lục thao. Cách nói cho biết mình là người có tài. Đây chỉ là cách nhập đề giới thiệu nhơn vật phải có của tuồng, không có tính cách phô trường gì hết. Nếu theo cách nầy người đời nay viết kịch thì là sự phô trưong kịch cỡm của nhơn vật.chữ phen được dùng nhiều trogn văn thơ xưa. Thơ Tam Cang: Chớ nghe kẻ buôn mây bàn giò. Đừng phen người thay vợ đồi chồng. Đinh Thái Sơn, Sàigòn, Nhà in Xưa Nay, 1929.

[7] Đã chầy ngày 㐌遲𣈜: Đã lâu ngày. Lâu rồi.

[8] Kíp vào 及𠓨: Mau vô.

[9] Ngõ về 吘𧗱: Để mà về.

[10] Quê xưa tỉnh thám 圭𠸗省探: Thăm viếng quê cũ.

[11] Vâng lời Thượng Đế xuống trần gian. Đến nơi Lĩnh Thúy dưỡng an nhàn, Thế giới trần ai không chút nhiễm. Tâm truyền diệu pháp cho người giúp vua. BN thiếu chữ ở câu ba, tạm thêm chữ bán (bán nhiễm).

[12] Thầy thấy đệ tử buồn bã thì biết ngay.

[13] Thầy nói chuyện tương lại cho trò biết.

[14] Giữ gìn lòng (thìn lòng) cho chắc chắn, không thay đổi.

[15] Chia tay trong bịn rịn nghĩa thầy trò.

[16] Nhứt định làm được như người có tài trừ cọp giết rồng. Phen 畨: so sánh với, ngang với.

[17] Hai câu: Muốn làm trung thần có công để được vẽ hình trong triều đình và được vua ban sắc son cho con cháu về sau, và tên mình được ghi trong sách sử. Ý nói sẽ cố gắng lập công nghiệp với đời.

[18] Nhìn thấy phong cảnh đẹp sang trọng của thành đô,vì lâu nay ở nơi sằn dã núi rừng.

[19] Nơi nơi đều có sự vui của âm nhạc đờn ca.

[20] Trúc cao tùng đẹp xum xuê, Một dòng nước biếc cùng trời màu xanh. Cảnh Xuân đẹp đẽ gợi tình. Lòng tăng vui vẻ khiến mình mẩn mê.