Tuồng Nôm ba hồi Từ Thắng (3)

Nguyễn Văn Sâm phiên âm chú giải
Nguyễn Hiền Tâm đính chánh
Tuấn Khanh - Anh Tú biên tập

Hồi 1, Phần 3, Lớp 7-10.

Tổng quan:

Tuồng nầy, bản viết tay từ trước tới giờ nằm trong cơ quan EFEO Paris (thường gọi là Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp), lâu nay chưa ai đem ra giới thiệu, chúng tôi sao lại từ hơn chục năm trước, 2005, giờ phiên âm, trình làng trên fb của mình, coi như là lần đầu tiên học giới biết về nó. Tuồng gồm ba hồi, kết cấu không có gì đặc sắc lắm, gần giống như những tuồng Nôm khác nhưng ít tình tiết hơn, nhứt là hồi ba. Tuy nhiên, những đoạn vãn trong nầy rất hay nếu người nghe biết chút ít chữ Hán để hiểu. Đại khái đề cao sự tín thành trong tình bạn, nết chung thủy trong tình yêu, lòng trung quân ái quốc với tư cách là người tài khi đất nước cần.

Trên fb, cũng như trên những trang mạng thân hữu, bài không được quá dài, chúng tôi chia Hồi Thứ Nhứt ra làm ba phần và upload lên từ từ tùy theo hoàn cảnh. (NVS, April 8, 2022)

Phần 1. Lớp 1-3: Hai hàn sĩ bạn thân nghèo, vừa đi khuyên giáo vừa học hành, lạc vào hoa viên một vịquan lớn. Công Nương Thanh Hương thử tài coi phải là hàn sĩ hay không bằng cách bắt mỗi người làm một bài thơ. Phạm Kim làm thơ lẳng lơ bị chê, Hoàng Vân làm thơ tỏ ý cao sâu nên được khen, được để ý và hai người được tặng hai lượng bạc giúp ngặt.

Phần 2. Lớp 4-6: Đại quan về bắt gặp hai hàn sĩ trong vườn, xét trong mình họ thấy có vàng nhà mình nên bắt về tội trộm. Ngục thất đương có một ngục sĩ là Từ Thắng, người nầy rất cảm tình với hai người tù mới. Trong lúc đó thì công nương Thanh Hương đau lòng vì chuyện xảy ra nên bàn với tì nữ cách giúp hai hàn sĩ. Họ tổ chức phát chẩn mỗi ngày nên Phạm Kim và Hoàng Vân đỡ ngặt trong chốn lao tù, nhờ hề đồng của họ đi lãnh đồ cứu trợ.

Phần 3. Lớp 7-10: Nhơn dịp triều đình mở khoa thi Tiến Sĩ, Từ Thắng bàn cách cho Phạm Kim thoát tù ra đi thi với bài thi của Hoàng Vân. Hoàng Vân không đi vì nghĩ rằng vì mình mà bạn bị tù nên tình nguyện ở lại. Phạm Kim đậu Trạng và được vị quan kia hứa gả con cho, đó chính là công nương Thanh Hương. Trong tù Hoàng Vân nghe tin bạn thi đậu thì mừng lắm. Từ Thắng lại giúp Hoàng Vân có tiền đi nhìn bạn. Bẽ bàng là Phạm Kim không nhìn bạn và chối quá khứ của mình.



Lớp 7 Từ Thắng và Hoàng Vân giúp cho Phạm Kim đi thi.

Ban truyền:

Thừa ly bệ, Thừa ly bệ! Vãng [6b] quận châu, Vãng quận châu!
Truyền Hớn tử chư châu chư quận, Hội xuân vi lai chiếm ngao đầu.
Phạm, Hoàng hề thượng (Hề đồng của Phạm Kim, Hoàng Vân đi lên).

Hề của Phạm Kim:

Nay lịnh Thánh bảng rao thiên hạ, Ai ai đều dặc[1] chí lăng vân.
Mình bây giờ như cá trong nơm, Xuân vi hội, chước nào ra đặng?

Vân, Kim:

Thiên phần thư dã, Địa táng sĩ hồ!
Tiếc công đèn sách mấy thu, Nỡ bỏ công danh một hội.

Thán:

Khôn phương lui tới, Trong chốn lao tù.
Danh lợi khôn mua, Tiếng nhơ dễ chuộc?
Bảng vàng những ước, Phận bạc nào hay.
Tiếc công mài sắt chầy ngày, Gần đặng thành kim mà bỏ.

Từ Thắng:

Nghe hai gã tê[2] than phận khó, Ruột chín chìu thốn thức nương long.
Ta mắc oan ta chịu đã xong, Người vô tội mang tai cũng thảm.
Loài tiểu bối thấy nghèo mà lánh mặt, Đứng [7a] anh hùng thấy nghĩa phải ra tay.
Người than van ai nỡ thắt dây, Chim chíu chít bao đành giương ná.
Công bấy lâu đèn sách, Chờ một hội khoa trường.
Mỗ làm ơn ra đức cứu chàng, Kíp ghé lại tỏ lời trong đục.

Lại nói:

Chớ dại, chớ dại! Đừng la, đừng la!
Ý hai ngươi dầu muốn ứng khoa, Mỗ nguyện cứu khỏi vòng tù túng.
Bảng vàng dầu thi trúng, Nhà ngọc sẽ toan phương.
Ai học tốt văn chương, Ra gặp thời khoa mục[3].

Phạm Kim:

Bỗng nghe tiếng nói, Ơn sánh hai trời[4].
Cúi lạy[5] người xin cứu anh tôi, Ra ứng cử hoạ nhờ lộc chúa.

Hoàng Vân:

Tội này tây ở mỗ, Cho nên luỵ tới ngươi.
Em ngõ ra ứng cử kịp người, Hoạ cứu chúng khỏi nơi ách nước.
Cải tên họ đặt làm Trùng Phước, Kim quyển cho[6], xin nhớ nghĩa nhân.
Ví dầu biển cạn non mòn, [7b] Xin nhớ ơn thầy nghĩa tớ[7].

Từ Thắng:

Canh ba mắng tiếng gà hầu trở, Khuyên hai ngươi chớ khá dùng dằng.
Phạm Sĩ ra khỏi chốn rạc ràng, Hoàng Vân ở cùng min[8] luy tiết[9].

Phạm Kim:

Nhứt biệt, nhứt biệt, Thiên ân, thiên ân.
Tôi dầu mà có dạ đảo điên, Xin phó có quỉ thần tru lục[10]. hạ

Từ Thắng:

Lấy gông này đóng lại Lính Sầm, Dầu có lậu mặc min sở liệu.

Lính Bố:

Trên lầu nghe tiếng khiếu, Canh tư chẳng thấy giao.
Lính Sầm nằm ngủ phơ râu, Phạm Sĩ nay đà nhẹ gót.

Lính Sầm:

Canh đổi cho chú Thắng, Con mắt mới lem nhem[11]
Sao đã mất chú Kim, Gông mang vào cho mỗ.

Tổng:

Bởi vì ta thất thố[12], Thôi chớ khá phàn nàn.
Việc này phải thưa quan, Bắt lẽ nào mặc lịnh.

Lớp 7bis. Phạm Kim đi thi và đậu Trạng.

Thi, ẩn (Đi thi, đậu Trạng Nguyên. Viết nhảy lớp). [8a]
Tác giả dùng chữ ẩn nghĩa là có cũng được mà không có cũng được tùy đoàn hát sau nầy.

Lớp 8 Phạm Kim được quan lớn hứa gả Thanh Hương.

Trần Nguyên:

Mừng cho Tân Trạng, Nên đấng văn chương.
Xin thỉnh lại gia đường, Sẽ bày lời thâm thiển.

Lại nói:

Rượu nhắm đà quá chén, Nên mới dám trần tình.
Lão sớm sanh có một gái lành, Tên thiệt Tống Thanh Hương là hiệu.
Lão xin đưa mày liễu, Đặng hiệp phối cùng người.
Ưng chăng khuyên đó cạn lời, Đành chẳng cho già thoả dạ.

Phạm Kim:

Đại quan đà tưởng tới, Tôi chi xiết cảm lòng.
Người đà có dạ bao dung, Rồi sẽ toan bề hôn sính.
Tạ từ nơi trướng sấu, Hồi dinh nội lo toan.
Trăm năm chử dạ đá vàng, Muôn kiếp ghi lòng son sắt.
Hựu đồng thượng (Lại cùng lên).

Lại nói:

Sắm sanh vàng bạc, Toan liệu báu châu.
Chọn ngày lành sang đến xuân đầu, Dâng lễ cưới sẽ vầy phu phụ.

Hề:

Nay ông đã đề danh thẻ bạc, Làm sao chẳng nhớ [8b] nghĩa bạn vàng.
Vì ai mà khỏi chốn rạc ràng, Mà đi nỡ kiếm người thê thiếp?
Dầu chẳng kiêng búa nguyệt, Thời cũng sợ kiếm trời.
Hưởng lộc trời cũng tại công người, Sao quên nghĩa nhớ thù lắm bấy.
Người trong ngục lòng trông dạ tưởng, Ông làm nên, sao nỡ sơ sài[13].
Muôn ân cúi lạy thầy, Xin theo nghe lời tớ[14].

Phạm Kim:

Mồ cha loài đầy tớ, Hay nói việc quan thầy.
Mầy dạy ngược lại tao, Cháu đẻ ra ông nội.
Nếu cứu Hoàng Vân khỏi nạn, Sao cho cưới đặng Thanh Hương.
Nay tước quyền theo thú tước quyền, Ai tù túng mặc ai tù túng.
Mỗ hỡi toan giồi tiết sáng, Khiến min làm thói danh ô.
Chưa phải mặt Quân sư, Cầm quạt mo nói phách. hạ

Lớp 9: Hề dồng của Phạm Kim bất nhẫn vì tánh của chủ.

Hề của Phạm Kim[15]:

Người đã nên bội ước, Nói những việc lấy thời[16].
Phải chăng phó mặc lòng ai, Nắm giữ một niềm [9a] ngay thảo. hạ

Lớp 10. Hoàng Vân đươc tin bạn thi đậu, muốn nhờ bạn cứu giúp.

Hề của Hoàng Vân[17]:

Gặp quí nữ giúp cho tiền gạo, Trẩy hương thôn kiếm đặng vật dùng[18].
Khuyên cậu khá đành lòng, Miễn đỡ khi lúc ngặt.

Hoàng Vân:

Con tua khá mượn nồi nấu gạo[19], Nay tới ngày lễ cúng Thánh hiền.
Có thời đủ vàng bạc giấy tiền. Không thời tạm triện hương[20] chén nước.

Từ Thắng:

Một người làm phước, Cả họ đặng nhờ.
Bấy lâu nhờ bữa sớm bữa trưa, Luận cho phải nhờ ơn Hoàng sĩ[21].
Nhớ làm văn mà lễ, Cho mỗ gởi một tên.
Tuy min chưa học đạo Thánh hiền, Nọ cũng muốn vui trường Khổng Mạnh.
Thiết cúng Tiêu Diện thượng (Dọn cúng Tiêu Diện[22]).

Hoàng Vân:

Nguyện Tiêu vương lực sĩ, Cùng chúng đẳng cô hồn.
Con học trò ở chốn ngục môn, Nguyện cung hưởng, cầu chi tắc ứng.

Hề:

Ra xin chợ, người đồn tráo chác[23], Trùng Phước đà thi trúng Khôi khoa[24].
[9b] Chẳng thấy tin cứu nạn chúng ta, Hay là đã đặng chim bẻ ná.

Hoàng Vân:

E con nghe chưa quả, Lời người nói thị phi[25].
Chàng dầu gặp hội xuân vi[26], Há dễ quên niềm bậu bạn.

Từ Thắng:

Anh hãy tới thăm cho biết, Có không xem thấy mới tường.
Dối quân nhân rằng nghĩa chí thân, Người thi đỗ, đem đi hành khất
Mặt cho tường mặt, Lòng mới hãn[27] lòng.
Kẻo thương người mắc chốn lưới hồng, Sá chi mỗ, lăm trong miệng ngạc.

Hoàng Vân:

Lạy chú Tổng mở lòng nhơn đức, Đem tôi đi tìm kẻ ân nhân.
Nghe rằng người thi đỗ Trạng nguyên, Dầu tới đó kiếm chi cơm rượu.

Tổng:

Ngươi Từ biểu lão, Thời lãnh đi cho.
Tới nhiều rượu thịt thời no, Tiền hành lý khứ hồi chắc có[28]. hạ
Phạm Kim thượng. Vân, Hề, Tổng đồng thượng (Phạm Kim lên, Vân, hề, tổng đều lên).

Lớp 10. Vân bị Kim phủ nhận tình bạn xưa và bị đánh đòn.

Tổng:

Đây phải dinh quan Trạng, Nghe [10a] lời mỗ dặn cùng.
Có Hoàng Vân thân nghĩa đến thăm, Sắm cơm rượu mừng quan[29] Đề điệu.
Tùng nhập (theo vào).

Phạm Kim:

Lão nào tới nói vơ nói líu, Nào ai biết Hoàng mô Vân mô.
Hễ là thiệt quân tù, Biểu đem ra xin chợ.
Này này mầy sanh sự, Đem buộc tội cho ta.
Tang vật chi đem tới một tù, Đè quách xuống đánh đòn ba chục.

Tổng:

Tới không cho uống nước, Bắt ăn những bánh đòn[30].
Ngươi mau vào ân trả nghĩa đền, Ta ăn uống no say thoả dạ.

Hoàng Vân:

Ngửng trông nhờ nghĩa cả, Xin đoái tưởng tình xưa.
Kẻo tớ thầy luống chịu nắng mưa, Trong lao lý khôn phương day trở.

Phạm Kim:

Thằng tù nào khảng khái[31], Buông lời nói ngoa ngôn.
Tao là dự tông môn[32], Sao dám nhìn huynh đệ?

Hoàng Vân:

Ra rứa:
Chẳng nhớ [10b] khi cơm tấm gạo dền[33], Hai bữa gạo, một nồi phân bốn[34].
Tấm áo rách che thân ngày trọn, Mảnh quần xười[35] thay đổi đêm thâu.
Chữ đồng sanh đồng tử ở đâu? Câu tương hại tương tàn thấy đó.
Mới biết sang quên bạn khó, Cho hay giàu đổi vợ hiền.
Trông làm nên cao tước lớn quyền, Mà cứu tội cho anh em bạn.
Xin Trạng nguyên xét lại, Muôn kiếp nguyện ân đền.

Hề của Phạm Kim:

Nhớ nghĩa nọ phụ phàng sao phải, Còn ơn kia, người nỡ chẳng ghi[36].
Xin ông phải xét suy, Cho người nhờ lúc ngặt.

Phạm Kim:

Đoàn trộm cướp đến làm xấu hổ, Thêm nô tì nhìn mặt bà con.
Lấy hèo hoa[37] đặng mỗ đánh đòn, Đè cổ xuống chớ cho nó cựa. hạ

Hoàng Vân:

Đau không hơi thở, Tức khó tiếng kêu.
Gượng mà về khuyên tớ đỡ dìu, Nông nỗi ấy nói làm chi nữa. [11a]

Vãn:

Nông nỗi ấy nói làm chi nữa,
Sao quên ngày nhịn đói nuôi nhau.

Hề vãn:

Trách ai chẳng nghĩ trước sau
Tham sang phụ khó, tham giàu phụ ân.

Hoàng Vân, vãn:

Nỗi mình đã trách lại hờn,
Vận thời tráo chác nghĩa nhân đổi dời.

Đồng vãn:

Phải chăng, rõ xét có Trời,
Một thiên trước vãn, hai hồi sau dâng[38].

Hết Hồi 3

__________

CHÚ THÍCH:

[1] Dặc 弋: say, HTC: dặc dừ, say dặc dừ.

[2] Tây 私, có thể đọc tê (nghĩa là kia, kìa, ngữ âm Huế).

[3] Ý là ai học giỏi thì ra đi thi...

[4] Ơn sánh hai trời là ơn lớn như được tái sanh, như trời sanh mình lần nữa.

[5] BN ghi bái 拜, nghĩ là tác giả muốn viết chữ lạy 𥛉 theo cách đọc nghĩa..

[6] Nghĩa là Hoàng Vân đưa bài văn của mình cho Phạm Kim để đi thi vì biết anh nầy tài không cao, cần phải có ‘bùa’/ ‘phao’.

[7] Dặn trước nhưng mà rồi người cũng quên.

[8] Min 綿: HTC, tao, ta.

[9] Luy tiết 縲絏: Tù ngục, nghĩa như chữ rạc ràng.

[10] Thề thì mắc, xin đừng thề khi người ta không bắt buộc!

[11] Lem nhem 𥋲𥄮: HTC, dấp dính, nhắp nhem, coi không tỏ rõ. Ở đây là chỉ cho người ngủ mới dậy.

[12] Thất thố 失錯: HTC, bất ý, mập mờ.

[13] Sơ sài: Đây hàm ý lạnh nhạt, không niềm nỡ.

[14] Lời tha thiết của tớ khiến thầy càng thêm tức giận vỉ mình đã có quyết định trước.

[15] BN ghi Phạm Kim và làm dấu xóa đi 2 chữ vân. Tuy vậy, chúng tôi theo mạch văn, vẫn cho chữ Hoàng Vân là đúng. Đây là hề đồng của Phạm Vân bất mản với chủ ra ngoài càu nhàu một mình.

[16] BN ghi lấy 𥙩, có thể là chữ chữ xu 趨 viết lầm. Nói xu thời là nói theo người nào đương có quyền thế để tỏ sự nịnh nọt mong kiếm chút ưu ái. Chúng tôi nghiêng về cách đọc chữ lấy như nó đương hiện diện: Nói lấy thời là nói chuyện, lý luận dựa trên cái hoàn cảnh tốt ư thế hiện tại của mình.

[17] BN ghi Phạm vân 范雲, Nghĩ là viết lầm với Hoàng Vân 金.

[18] Có gạo tiền nhưng không có nồi niêu nên phải đi kiếm cho được để dùng! Nghèo quá.

[19] Coi bộ nghèo thiệt tình!

[20] Triện hương 篆香: Lư hương, thường có khắc chữ triện trên đó nên gọi lư hương là triện hương.

[21] Từ Thắng muốn nói là nhờ Hoàng Vân mới có chuyện nàng con nhà giàu kia làm chuyện từ thiện, vả mình được hưởng. Cũng là lời nói cám ơn.

[22] Tiêu diện 焦面: Ông thần mặt nám, dân gian kêu là ông Tiêu, được cho là một trong những hóa thân của Bồ Tát Quan Thế Âm. Chùa Tàu thường có tượng ở cổng trước chánh điện, được gắn lưỡi bằng giấy dài, dân gian tin rằng trẻ con khóc đêm uống nước tro lưỡi ấy sẽ hết khóc.

[23] Tráo chác 到卓: HTC, đổi ra nhiều thế, xiên ngoa, xảo lời nói. Đây có nghĩa là ngoài chợ có tiếng đồn nhiều cách, nhiều người không thể tin được.

[24] Phạm Kim đậu đầu, có nghĩa là Trạng Nguyên. Trùng Phước là tên đi thi cùa Phạm Kim do hai bạn Hoàng Vân và Từ thắng đặt cho.

[25] Thị phi 是非: Đúng sai. Đây có nghĩa là lới đồn chưa chắc đúng.

[26] Xuân vi 春圍: Kỳ thi Tiến sĩ.

[27] Hãn 罕: rõ ràng, chắc chắn.

[28] Giọng điệu của người tầm thường. Thiệt ra tác giả cho chi tiết nầy vô tuồng là để tạo tiếng cười cho khán giả coi tuồng.

[29] BN ghi quân 軍, chúng tôi cho là chữ quan 官 viết lầm.

[30] Chữ bánh đòn nầy thiệt là hay, chưa thấy đâu có chữ nầy. Ưu điểm của tuồng là chỗ nầy.

[31] Khẳng khái: Can đãm.HTC, Bộ mạnh mẽ, gan dạ, hết lòng.

[32] Dự tông môn 預宗門: Vào hàng dòng dõi (sang trọng).

[33] Cơm tấm gạo dền: tức là loại cơm gạo phẩm chất kém, bị gãy vụn và lên màu đỏ.

[34] Hai người bạn và hai người hề đồng.

[35] Xười : HTC, rách ra, rã ra, tả tơi (quần áo).

[36] BN viết đền 𡊰, sau có người lấy bút đỏ gạch đi mà viết chữ ghi 掑 vào bên cạnh.

[37] Hèo hoa: HTC, Gậy mây có hoa lúm đúm.

[38] Câu phải có của tuồng khi kết thúc một hồi.