Văn-Học Việt-Nam Trong-Ngoài

Khi nghiên cứu về văn học miền Nam 1954-1975 và văn học hải ngoại từ sau1975, chúng tôi nhận xét có ít ra hai vấn đề trước sau gì rồi cũng phải được đặtra và giải quyết thỏa đáng – theo nghĩa văn học, văn chương! Thứ nhất là mảngvăn học của những nhà văn thơ trong nước từng sinh hoạt văn nghệ trước biến cố30-4-1975 và sau 1975 đã xuất bản và cộng tác, đăng báo ở ngoài nước. Họ khôngđược nhìn nhận hoặc không sinh hoạt ở trong nước và từ thời gọi là “đổi mới”1987, họ đến với độc giả văn học ở ngoài nước hơn là với người đọc trong nướcnơi họ đang sinh sống. Có những tác-phẩm đã hoàn thành trước 1975 và có nhiềuvăn thơ, bút ký mới sáng tác sau này, do các nhà xuất-bản ở ngoài như Văn Nghệ,Người Việt, Tân Thư,... ở California, Trẻ ở Texas, Tổ hợp xuất bản Miền ĐôngHoa Kỳ, Tiếng Quê Hương ở vùng Washington D.C. và nhất là Thư Ấn Quán ở NewJersey, Hoa-Kỳ, Quê Mẹ và Lá Bối ở Paris, Pháp. Những tác-phẩm này không thể đặttrong “khuôn” văn học miền Nam trước 1975 vì văn học sử chỉ ghi nhận tác phẩmthời nào thì thuộc về thời ấy. Cũng không thuộc về văn học chính thức của trongnước cũng như không chính xác thuộc về văn học người Việt hải ngoại (vào thờiđiểm sáng tác). Chúng tôi ghi nhận các tác giả và tác phẩm này như là thành phần“văn học miền Nam nối dài” trong biên khảo về văn học hải ngoại. Điều này có thểsẽ gây tranh luận, chúng tôi chờ đợi mọi ý kiến, phê bình về điểm này.

Vấn đề sau là biên giới trong ngoài đối với văn học hải ngoại cũng nhưvăn học của trong nước, vì chính trị đã bị đôi bên trong ngoài vạch rõ trắngđen và hình như lằn ranh vẫn còn nổi cộm!

Dù gì thì văn học ở ngoài nước sau hơn 44 năm theo thiển ý đã có côngthay đổi... cục diện chiến trường văn học, dù rằng trên báo chí và nhiều diễnđàn, có những người dù chỉ là thiểu số vẫn tiếp tục duy trì chiến tranh, phụcquốc, vẫn không công nhận văn học của phía bên kia - và phía kia thì vẫn cốtình xem bên ngoài là văn học của “ngụy”, không trong luồng; nhưng chúng tôinghĩ cả hai khuynh hướng này sẽ trở thành quá khứ với thời gian và tình thế hoặcthế hệ, dù tinh thần sẽ vẫn sống trong tâm tư và ý chí của người xa xứ cũng nhưtrong nước. Thiển nghĩ, cuối cùng rồi ra chỉ có một văn học Việt của người ViệtNam.

Trong-ngoài và tác-phẩm của người trong nước

Ngay từ thập niên đầu của văn học hải ngoại đã có những tác phẩm của nhàvăn thơ sống trong nước được kín đáo chuyển ra xuất bản ở hải ngoại vàdĩ nhiên tác giả chúng phải đổi danh tánh, bút hiệu: Đi! (Paris: Lá Bối,1982) của Hồ Khanh tức Doãn Quốc Sỹ, một số thơ của Trần Kha tứcThanh Tâm Tuyền thơ in chung trong Tắm Mát Ngọn Sông Đào: thơ,văn, nhạc sáng tác từ quốc nội (Lá Bối, 1981), Hoàng Hải Thủy, v.v…Trong số đó nhiều người sau này được ra đi qua các chương trình H.O và đoàn tụgia đình. Một số trường hợp khác công khai có tác phẩm xuất-bản ở ngoài nướctrước khi dời cư ra sinh sống ở hải-ngoại, như Tạ Chí Đại Trường (Một KhoảnhViệt Nam Cộng Hòa Nối Dài và viết chung với ngoài - Nguyễn Xuân Nghĩa, tập ViệtNam: Nhìn Từ Bên Trong và Bên Ngoài (Văn Lang, 1994), như Cung TíchBiền (Thằng Bắt Quỷ, Tân Thư, Hoa Kỳ 1993),… Bùi Giáng trước khi mất(ngày 7-10-1998) đã có Thơ Bùi Giáng (Montréal: Việt Thường, 1990; Thế Kỷ1994). Khoa Hữu in Hai Mươi Bài Lục Bát (Trình Bầy, 1994) và Thơ KhoaHữu, (Văn Học, 1997). Nguyễn Hiến Lê có bộ Hồi Kí nhờ xuất bảnở hải ngoại (nhà Văn Nghệ) mà người đọc mới có được văn bản trọn vẹn không bịkiểm duyệt như bản in trong nước. Ngoài ra, nhà Văn Nghệ còn xuất bản các sáchkhác của ông như Khổng Tử, Tuân Tử, ... Con Đường Thiên Lý (tiểuthuyết, được xuất và tái bản nhiều lần từ 1987).

Các nhà văn của văn học miền Nam đã vậy, mà cácnhà văn trưởng thành trong chế độ cộng sản, hoặc thân hay theo Cộng, cũng bí mậtgởi tác-phẩm ra in ở ngoài nước như Dương Thu Hương, hoặc cách khác nhưLê Đạt (Từ tình Ép-Phen, 1998),Nguyễn Huy Thiệp, Trần Quốc Vượng (Trong Cõi, Trăm Hoa, 1993), Nguyễn NgọcLan (Nói Thẳng Nói Thật, Nhật Ký 1990-1991, NXB Tin Paris), Hà Sĩ Phu,Đào Hiếu (Nổi Loạn), Tiêu Dao Bảo Cự (Nửa Đời Nhìn Lại, 1994), TrầnVàng Sao (Bài Thơ Của Một Người Yêu Nước Mình, 1994), v.v…

Vào đầu thiên niên kỷ mới, việc chuyển tác phẩm ra xuất bản ở hải ngoạibình thường hơn, có những hồi ký của Nguyễn Thụy Long (Hồi Ký Viết Trên “GácBút” 1999, Thuở Mơ Làm Văn Sĩ 2000, Giữa Đêm Trường 2000, Thân PhậnMa Trơi 2000), Thế Phong (Hồi Ký Ngoài Văn-Chương), thơ Hữu Loan (Thiên Đường Máu do nhóm QuêNgoại của Hà Thượng Nhân ở San Jose CA năm 1991), Văn Quang gửibài đăng trên Internet, trở thành giây liên lạc trong ngoài và xuất-bản Sài-gònCali 25 Năm Gặp Lại 2000, Ngã Tư Hoàng Hôn 2001, Soi BóngCuộc Tình, các phóng sự tiểu-thuyết Lên Đời 2004-5, v.v…, Tạ Duy Anhcó Ði Tìm Nhân Vật (Tủ sách Tiếng Quê Hương), Nguyễn Viện mạnh sáng tácvà in ở ngoài Rồng và Rắn (THXBMĐ, 2002), Chữ Dưới Chân Tường (VănMới, 2004), Đĩ thúi & phần còn lại ở cõi chết (Chương Văn, 2015), Ma& Người (Tiếng Quê Hương, 2018), Trong hàng rào kẽm gai, tôi thở (NXBNhân Ảnh, 2018), Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Bình Phương (Xe Lên Xe Xuống - NXBDiễn Đàn Thế Kỷ, 2011), v.v... Ngoài ra, Cung Tích Biền trước khi sang định cưtại Hoa Kỳ đã cộng tác đăng tác phẩm như Mùa Hạ [tiểu thuyết đăng từng kỳ- 194 số nhật báo Người Việt năm 2012] và tập 20 tân truyện Xứ Động Vậtđăng trên tạp chí liên mạng Da Màu Văn chương Không Biên giới năm 2008, vàđã xuất bản Đành Lòng Sống Trong Phòng Đợi Của Lịch Sử (2015,tái bản 2018).

Thư Ấn Quán của nhà vănTrần Hoài Thư từ năm 2000 xuất bản theo hình thức book-on-demand, đã in nhiềutuyển tập, xuất và tái-bản các tác-phẩm của nhà văn thơ miền Nam nhất là giớitrẻ thời cuối thập niên 1960 và đầu 1970 trong đó có người đã quá cố. Xin ghinhận vài tên tuổi sống ở trong nước: Từ Thế Mộng, Trần Dzạ Lữ, Lê Văn Thiện,Linh Phương, Nguyễn Bắc Sơn, Hoài Khanh, Hạc Thành Hoa, Nguyễn Nghiệp Nhượng,Vũ Hữu Định, Nguyên Minh (Tưởng Chừng Đã Quên, 2005), Nguyễn Lệ Uyên (SôngChảy Về Núi, 2003, Mưa Trên Sông ĐaKbla 2003, Trang Sách và NhữngGiấc Mơ Bay, 3 tập; v.v…), Khuất Đẩu (truyện dài Những Tháng Năm CuồngNộ, tập truyện Người Giữ Nhà Thờ Họ, v.v…), Khoa Hữu (Nửa Khuôn Mặt,thơ), Phạm Ngọc Lư (Đan Tâm 2004; Mây Nổi 2007), Mang Viên Long (BiểnCủa Hai Người), v.v…

Bên cạnh đó là hiện tượng xuất bản tác phẩm của các tác giả trong nướchoặc những tiếng nói phản kháng, như Phùng Cung (Truyện và thơ chưa hề xuấtbản, Văn Nghệ, 2003; Montreal: Trung tâm Dân chủ cho Việt Nam, 2004), TạPhong Tần (Tuyển Tập), Người Buôn Gió (Đại Vệ Chí Dị), Trần Đĩnh(Đèn Cù, 2014),... Những người chống đối chế độ Hà Nội khi ra tị nạn ởngoài nước cũng có tác phẩm xuất bản như Bùi Tín (Mặt Thật, Hoa Xuyên Tuyết,...),Vũ Thư Hiên, Nguyễn Chí Thiện, Dương Thu Hương, Trần Khải Thanh Thủy (ChếtNgoài Kế Hoạch, 2013),...

Ngoài ra, một, hai thậpniên gần đây, khối người làm văn học ở hải ngoại có thêm thành phần từ trong nướcra định cư sống ở hải ngoại (do bảo lãnh, di trú) nhưng có người tiếp tục viếtbáo và xuất bản cho khối độc giả trong nước như Lý Lan, Nguyễn Thị Minh Ngọc, MạcCan (Tấm Ván Phóng Dao, NXB Trẻ TX), ...

Ngược lại, có những tácgiả hải ngoại xuất bản sách ở trong nước (do họ chủ động - vì không kểnhững trường hợp xuất và tái bản không chắc có sự thỏa thuận với tác giả) nhưNguyễn Mộng Giác (Sông Côn Mùa Lũ), Nam Dao, Nguyễn Ước, Nguyễn ĐứcTùng, Yên-Tử cư-sĩ Trần Đại Sỹ (Nam Quốc Sơn Hà 2003, Anh Hùng TiêuSơn - NXB Trẻ 2003, Anh Hùng Đông A Dựng Cờ Bình Mông 2004), Phạm Ngọc(Mùa Khát Vọng - NXB Đà Nẵng, 2004), Cổ Ngư (ĐêmNghi Ngại - HộiNhà Văn, 2005), Đỗ Kh. (Kí Sự Đi Tây - Văn Hóa Thông Tin tb, 1990), TrầnKiêm Đoàn (Tu Bụi xuất bản cùng năm 2006 ở ngoài, nhà Titan, và ở trong,NXB Thuận Hóa & Phương Nam), Hoàng Khởi Phong (Người Trăm Năm Cũ - NXBHà Thế & Hội Nhà Văn tb 2009), Phan Xuân Sinh (Khi Tình Đang Ru Đời - NXBVăn Nghệ TpHCM, 2007), Đặng Tiến (Thơ: thi pháp và chân dung - NXB Phụ nữ,2009), Cao Huy Thuần (Tôn giáo và xã hội hiện đại - ThuậnHóa/Phương Nam, 2006; Nắng và Hoa - Văn Hóa Sài Gòn, 2006, v.v…), PhanHuy Đường (Tư duy Tự do - NXB Đà Nẵng, 2006), Du Tử Lê (các tập thơ ThơTình Du Tử Lê - NXB Văn Nghệ TpHCM, 2005; Giỏ Hoa Thời Mới Lớn – LiênViệtBooks,2014, và mới đây 2018, 2 tập thơ Khúc Thụy Du - Phanbook & NXB HộiNhà văn, Trên ngọn Tình sầu và tiểu thuyết Với nhau, Một ngày nào -NXB Hội Nhà văn và Saigonbooks),… Mới nhất là Trần Vũ được NhãNam và Hội Nhà Văn Hà-nội xuất bản tập truyện ngắn Phép Tính Của MộtNho Sĩ (2019). Phạm Văn Ký nhà văn Pháp thoại cuối đời xuất bảntập thơ Đường Về Nước (NXB Hội Nhà Văn, 1993),... Thật khác với cácnhà văn Cuba lưu vong hình như không xuất bản ở nước cũ do cộng sản cai trị vìđó là lý do khiến họ phải ra đi – một lưu vong có thể xem là đúng nghĩa nhất!

Hoặc những nhà văn xuất thân từ miền Bắc sang Đông Âu hoặc từngđi lao-động và tị nạn hay du học sinh nay xuất bản trong nước: Nguyễn Văn Thọ(in thơ Mảnh Vỡ, Cửa Sổ, Bên Kia Trái Đất, tập truyện Gió Lạnh, VàngXưa (2004), giải thưởng của báo Văn Nghệ, hội Nhà văn và báo Văn nghệ Quânđội, tập tùy bút Đào Ở Xứ Người (2005), tiểu thuyết Quyên (NXB HộiNhà văn, 2009),... Lê Minh Hà sau khi đã thành công với độc giả Việt Nam ở hảingoại, xuất-bản các tập truyện Gió Từ Thời Khuất MặtNhững Giọt Trầmvà Thương Thế Ngày Xưa (NXB Văn Hóa, 2005) và đến nay 2019, hơn 10 tậpkhác; Phạm Hải Anh, giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam 2003 với Đi Hết ĐườngMưa (NXB Hội Nhà văn 2002) sau Huyết Đằng 2001 in ở Cali và TìmTrăng Đáy Nước, 2003 đều do nhà Văn Mới CA - hai nhà văn nữ này inchung tập truyện Sâm Câm (NXB Phụ Nữ 2004), Thế Dũng với tập thơ HoaHồng Nở Muộn (1992) rồi tiểu thuyết Hộ Chiếu Buồn (từng in thơ ởHoa-Kỳ, Từ Tâm 1977), Lê Xuân Quang (3 tập Những Mảnh đời Phiêu bạt,2002-2011), v.v. Thuận sống ở Pháp, sau khi in Made in VietNam – Văn Mới,2003 ở ngoài, xuất bản trong nước từ 2005 các Paris 11 tháng 8, ChinaTown/Phố Tàu, T. Mất Tích, Thang Máy Sài Gòn,... Hoặc sinh viên rồi ởlại ngoài nước làm giáo sư, nghiên cứu và in sách như Đoàn Cầm Thi,... Nhữngngười này có thuộc về văn học hải ngoại không? Câu trả lời dễ cho thời trước,nhưng dần dà sẽ khó vì nay họ đã trở về hoặc sinh hoạt văn hóa, xuất bản vớitrong nước. Cũng cần ghi nhận trong nước đang chỉ ... chính thức nhắctên những người xuất thân từ miền Bắc, như một luận án tiến sĩ gần đây, 2016 “TưDuy Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết của một số Nhà Văn Nữ Hải Ngoại Đương Đại” - tựathì vậy nhưng cũng chỉ phiếm diện thu hẹp trong 12 cuốn của 4 bà nhà văn “của họ”(!):“Thuận, Đoàn Minh Phượng, Lê Ngọc Mai, Lê Minh Hà…nổi bật lên như một hiện tượng,chứa đựng nhiều đổi mới quan trọng trong tư duy nghệ thuật. Cùng với các nhàvăn nữ trong nước, những nhà văn nữ kể trên đã thể hiện một cuộc ”tự vượt”của giới nữ để vịnh dự đứng trong hàng ngũ những người đại diện cho khuynh hướngcách tân thể loại...”(!).

Ở đây, chúng tôi ghi nhận sự việc có những tác giả xuất bản tác phẩmcủa mình ở trong nước, chúng tôi ghi nhận để có cái nhìn đầy đủ hơn. Vì thiểnnghĩ văn-học hải-ngoại gồm những nhà văn sinh sống thật sự ở ngoài nước hoặc hiếmhoi người trong nước thuộc dòng văn học miền Nam trước 1975, mà tác-phẩm của họvì lý do chính trị hoặc văn học như Nguyễn Hiến Lê, Cung Giũ Nguyên, Cung TíchBiền, v.v... đã gởi xuất bản ở ngoài nước, hoặc đã xuất bản trước khi ra địnhcư ở hải-ngoại.

*

Như vậy, biên-giới văn-học trong-ngoài hiện có cònkhông? Một số dùng phương tiện hoặc bảng hiệu nhà xuất bản trong nước để in“tác-phẩm” đem/gửi từ ngoài về, số khác có liên hệ, như Nam Dao (Trăng Thuê ẢoẢnh - NXB Lao Động và TT Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây 2008; Trăng NguyênSơ, Đất Trời), Mai Ninh (Ảo Đăng - Hội Nhà Văn Hà Nội, 2003 rồi CáVoi Trầm Sát - NXB Trẻ, 2004). Hai cây viết “du học” trước 1975 này đi theokhuynh hướng thời thượng ngoài-in-trong của nhiều nhà văn đi trước. Rồi nhữngdi dân Kiệt Tấn với Em điên xõa tóc (NXB Văn hóa Sài Gòn, 2009), Ngườiem xóm học (NXB Thời đại, 2011), Lớp lớp phù sa (NXB Văn hóa Vănnghệ, 2012), Đêm cỏ Tuyết (NXB Hội Nhà văn, 2014) và Vườn chanh miệtbiển (Công ty Thiện Tri Thức và NXB Đà Nẵng, 2018); ... Những bước đi thửtrước đó đã có như dự án của Khánh Trường chủ biên tạp chí Hợp Lưu thời1990, dự án ‘chết non’ - ngược lại, cũng vì cái “kỷ luật” đó mà nhóm Montréalthân trong nước thời đó đã ra tuyển tập Việt Kiều Với Quê Hương: Thơ Văn NgườiViệt Nam Ở Nước Ngoài, 1975-1990 (Nguyễn Phúc biên tập; NXB TpHCM, 1990).Sau đó thì đã có nhiều tuyển tập nhiều cây viết trong ngoài đáng kể có tuyển tập26 Nhà Thơ Việt Nam Đương Đại (Tân Thư, 2002) in ở ngoài và nhất làkhuynh hướng thời thượng dịch thuật đáp ứng nhu cầu “tò mò” (voyeurisme) chínhtrị hơn là văn chương của vài tác giả trong nước và lâu lâu xen kẽ vài cây viếthải ngoại hoặc miền Nam tự do như các tuyển dịch của Phan Huy Đường, của Đoàn CầmThi, hoặc tập truyện ngắn The Other Side of Heaven (1995) hợp lưu 3 phíaCS-VNCH và Hoa-Kỳ do Wayne Karlin, Trương Vũ và Lê Minh Khuê biên tập, cùngtinh thần biên tập của Nguyễn Quý Đức (Once Upon A Dream - TheVietnamese-American Experience (1995) viết bằng Anh ngữ của các cây viết trẻnhư Andrew Lâm, Trần Đệ, Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Đại Hải. Ở Pháp, Lê Hữu Khóalàm tuyển tập La Part d’exil (Univ. Provence, 1995),...! Các nhà văn ởngoài cũng có mặt trong một số tuyển tập xuất-bản trong nước như các Tuyển TậpVăn Mới (2005-), Truyện ngắn 12 tác giả (Thanh Niên, 2011), v.v… Nhucầu thưởng thức văn học nghệ thuật chân chính chắc chắn không có biên giớitrong ngoài, nếu có là do chính trị bày trò, kiểm soát.

Tưởng cũng cần ghi nhận là Internet và toàn cầu hóa đã đưa người viết vàngười đọc đến gần nhau hơn, trực tiếp hơn, và đồng thời tạo cơ hội cho các “tácphẩm” khó khăn xuất bản ở một nơi có thể ra mắt ở nơi khác - như trang Talawas(cuối cùng đã ngưng hoạt động) và damau.org với mục Trên Kệ Sách http://kesach.org “xuất bản” dưới hình thức ebook từ các tác phẩm đã hoặc sẽ xuất bản,bên cạnh chương trình “Cho & Nhận” với mục đích “hỗ trợ các tác giảtrong và ngoài nước gặp khó khăn trong việc ấn hành và phổ biến tác phẩm văn họccủa mình. “Khó khăn” bao gồm những trở ngại tài chánh, kiểm duyệt văn hóa/chínhtrị, và rào cản địa lý”. Cũng từ đó sinh ra các hiện-tượng Đỗ Hoàng Diệu,Vi Thùy Linh, thơ Tân Hình-Thức, nhóm Mở Miệng và nhóm Ngựa Trời, v.v... Các ấnphẩm bị thu hồi, cấm lưu hành ở trong nước cũng có thể “ra mắt” “đến tay” ngườiđọc trong và ngoài nước qua phương tiện Internet như tập truyện Tột ĐỉnhTình Yêu (2008) của Nguyễn Thúy Ái, các tác phẩm của Nguyễn Viện do NXB GiấyVụn xuất và tái bản hoặc do các NXB hải ngoại, v.v… Tại Sài-Gòn, nhóm Mở Miệngđã xuất-bản Khoan Cắt Bê Tông, một tuyển tập thơ, dưới tên nhà xuất bảnGiấy Vụn, in 100 bản với lời chú “In xong & nộp bản lưu cho các tác giả9-2005”, với sự góp mặt của 23 tác giả trong và ngoài nước, nhưng xuất bản “ngoàiluồng, trong khi sau đó, tháng 11-2009, có sự việc tuyển tập phỏng vấn được gọilà “chuyên luận” Thơ Đến Từ Đâu của Nguyễn Đức Tùng được NXB Lao Động ởtrong nước ấn hành thì được, nhưng đến giữa năm 2013, Đỗ Thị Thoan tức NhãThuyên, trình một luận văn Thạc sĩ ở Hà Nội về Nhóm Mở Miệng thì lại trở thànhscandal và người nghiên cứu lẫn giáo-sư bảo trợ - cả hai đều là phụ nữ, đều bị… trừng phạt bởi lực lượng “bảo thủ” vẫn tiếp tục canh gác! Hai trường hợp này,vì quan điểm chính trị hay ô dù?

Trong nước, nói đến sinh hoạt văn học là luôn luôn và vẫn phải phân biệt,nào là “chính thống”, “ngoài luồng”, “trong luồng”,... Trong số các nhà văn thơxuất bản ở hải ngoại đã có một số nhỏ được trong nước giới thiệu, nhắc nhở nhưlà những nhà văn của “dòng chảy trầm của văn học xa xứ” như Thuận, Nguyễn VănThọ, Du Tử Lê,... - cũng có nghĩa là ‘“hải ngoại”. Cụm từ “hải ngoại” trong nướcthường dùng như ngôn ngữ tuyên truyền, dùng để “hỏa mù” như gọi là “cộng đồng”,“hội” Việt Nam để tung hô những quầy hàng ở rải rác vài lễ hội nơi hẻo lánh nhưYukon Canada hoặc những nhóm họp của người đi từ miền Bắc, ... Tờ Thể Thao& Văn Hóa ngày 3-10-2003 đăng nhận xét của một số nhà nghiên cứu vềdòng “văn học lưu vong” theo đó được biết các tác phẩm văn học hải ngoại đượcin trong nước phần lớn đều được tuyểnchọn trên cơ sở “tự tình dân tộc”!Tự tình là chi và dân tộc nàođây? Dù lấy tiêu chí này nhưng đã có những cái nhìn bắt đầu mở radù chưa trọn và thật sự! Trong nước hô hào dân tộc nhưbình phong thời nhắm chiếm miền Nam, nhưng không dám nhìn nhận là dân tộcnhững người Việt hải ngoại và tác phẩm của họ, trong khi chính các tác giả hảingoại đã có công duy trì ngôn ngữ và văn hóa truyền thống Việt! Dù gì đi nữathì thời điểm hiện nay - thời toàn cầu hóa, thời văn hóa số, liên mạng, ... đãkhiến biên giới trong ngoài thu hẹp lại rất nhiều. Đọc tác phẩm xuất bản, cả bảnthảo, tham khảo tác phẩm và bài viết trong ngoài, trong sử dụng tài liệu ngoài(ngược lại thì hiếm hơn!) để làm luận văn, biên khảo, nghiên cứu,... về văn họchải ngoại và văn học miền Nam trước 1975 cũng như các giai đoạn văn học trướcđó nữa! Đến độ khiến một số người bảo thủ hoặc sống trong ảo tưởng chiến thắng, đỉnh cao trítuệ, chính thống ... phải trở ... mình và lên tiếng, hằn học, cảnh giác, v.v…

Và thời đại mới phương tiện xuất bản cũng cập nhật với hệ thống bán sáchgiấy và số hóa qua một số công ty quốc tế như amazon.com, ... Với cách xuất-bảnnày thì biên giới trong ngoài của văn học Việt Nam đã dần biến dạng và có thể hếtcòn biên giới dù con người (“chống đến cùng”, “canh gác”) và chế độ (“đỉnh cao”,“ưu việt”) có không muốn đi nữa! Trên amazon.com, lulu.com,barnes&noble, ..., độc giả người Việt ở bất cứ đâu (và người ở các nước muốnnghiên cứu, học tập) có thể mua tuyển tập tùy bút và phê-bình của Ban Mai BiếtĐâu Nguồn Cội (Chương Văn, 2015), hay Bên Thắng Cuộc (Người Việt, 2012) của HuyĐức, Đèn Cù của Trần Đĩnh, hay của Cung Tích Biền Đành Lòng Sống Trong Phòng Đợicủa Lịch Sử (phỏng vấn do Lý Đợi,Đặng Thơ Thơ, Mặc Lâm thực hiện,2015), của Inrasara Văn Chương Tan Rã (Lotus Media, 2019), cũng như Thơ Việt ĐầuThế Kỷ 21 (Nhân Ảnh, 2018), bộ 44 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại (Mở Nguồn,2019), hay các tạp chí Ngôn Ngữ, Văn Học Mới,... - tức là sách báo của các nhàvăn hải ngoại và trong nước nói chung. Người Việt Books, Lotus Media, Nhân Ảnh,... ở California là những nhà xuất bản khá năng động của thời xuất bảnbook-on-demand hậu hiện đại này!

*

Thế hệ này qua đi, thế hệ khác tiếp nối, nhưng với cộng đồng người Việthải ngoại thì sự tiếp nối có những điều kiện hữu hình và vô hình ràng buộc vàkhó khăn hơn, đó là văn hóa cội nguồn. Luật tuần hoàn vẫn khiến có những nhân tốcó thể gây hồi sinh, nhập dòng trong ngoài, có người trở về quê hương sinh sốngcuối đời thì cũng có kẻ tìm đủ cách để ra đi! Chân dung cộng đồng người Việt hảingoại hiện nay đã khác nhiều so với những thập niên đầu tị nạn Cộng sản.

So với các ngành khoa học nhân văn khác luôn có mục đích, văn học có sứmệnh đặc thù tiên thiên và cho mỗi thời đại; sứ mệnh tự tại mang tính cănnguyên trước khi con người xã hội, chính trị can thiệp. Nhà văn Việt Nam trongngoài thật ra đều là nạn nhân của văn học chiến tranh và một thứ văn họcbị chính trị chi phối, điều khiển; chỉ có người thật lòng hoặc can đảm mớithành công đưa tác phẩm mình ra ngoài vòng cương tỏa của cái nhìn chung. Nhàvăn phải viết với tấm lòng và có tinh thần, mục đích sáng tạo. Do đó với thờigian, tình cảm nạn nhân đó rõ hơn, rồi sẽ dễ cảm thông nhau. Con ngườiphải được đề cao là con người thực thể, toàn diện - chứ không phải là trừu tượngkiểu truyền thống dân tộc (!), công nông đắp tượng những “anh hùng siêu thực”hoặc “phải là”! Đến nay, dù bớt cường độ và số lượng, nhưng chính trị, chiếntranh vẫn tiếp tục trên diễn đàn văn chương. Cuộc chiến xong một cách chính thứcnăm 1975 vẫn chưa giải quyết hết mọi vấn đề. Đau thương, mất mát, vết hằn đã insâu, gây mất mát, chia rẽ, những người làm văn nghệ vẫn sống cái chiến tranhđó. Mà chính trị trong nước cũng đã chẳng có gì tốt đẹp hơn dù đã đánh bóng,nói ngược tưởng sẽ giữ được vẻ “hào nhoáng”!

Nay hoàn cảnh mới cho phép nhà văn nhìn và viết khác, nếu muốn, với nhữngdữ kiện, sự thực lịch sử mới, rõ hơn, thì cái lòng yêu nước này cần được tiếp tụcđể tính cách “dân tộc”, “Việt” ngày càng rõ dấu trong văn học. Chính trị, ý thứchệ chỉ là giai đoạn, văn hóa dân tộc và văn học Việt mới thật sự lâu dài!