Người miền Nam
Minh đứng xớ rớ. Anh cảm thấy tay chân mình thừa thãi vô dụng, nên hết xoa tay lại cho tay vào túi quần, túi áo, như cố tìm vật gì để quên trong đó. Thật ra anh cũng không biết mình đang làm gì và phải làm gì? Các bạn đồng nghiệp cùng trại, ai nấy đều lăng xăng, lích xích, mỗi người nói một câu, đặt một giả thuyết, nhưng không ai có cách giải quyết hơn là tìm cho T. chai dầu Song Thập, hoặc Nhị Thiên Đường, hoặc hộp cù la Mac Phsu mà họ đã trân trọng giữ gìn phòng khi hữu sự. Mọi người đều bộc lộ vẻ thương tâm, ánh mắt vừa chia sẻ nỗi hoạn nạn của người bịnh vừa nghĩ đến thân phận mình “thấy người năm đó…”.
Cả trại hình như đã thức dậy hết. Giáo sư Diệm là người ít nói nhất và gần như là không bao giờ tham gia vào sinh hoạt của anh em, cũng nhìn cảnh tượng chung quanh rồi lắc đầu như nói với mọi người: “Tội nghiệp T. quá, mới hồi chiều anh còn mời tôi ăn mận đây. Thế mà …” giáo sư chép miệng: “Trông nặng lắm… có bề nào…”. Câu nói bỏ lửng với cái nhìn buồn thảm về phía T.
T. nằm cong lên như con tôm sẵn sàng búng để nhảy tới, hai đầu gối gấp vào ngực, hai tay chống xuống sạp tre, miệng cố gắng chõ vào kẽ hở giữa hai thanh tre để ói xuống đất. Lúc nầy anh đang trên thổ, dưới tả, toàn là nước, một thứ nước thôi thối, tanh tanh khó chịu với những lợn cợn nhỏ màu đen, giống như tô canh cạn được rắc nhiều tiêu, giờ đây đổ tràn trên sạp.
Chỗ nằm của T. hoàn toàn nhớp nhúa, dơ dáy đến khó chịu. Anh em nằm gần đã lấy mền của T. lau và đậy lại phần nào, nhưng mùi xú uế vẫn còn bay ra nồng nặc cả trại.
Minh chán nản. Số phận của T. như chỉ mành treo chuông. Nó đã ói đến mật xanh, nước vàng. Nó đã kiệt lực và đang nằm bên bờ vực thẳm phân cách giữa sống và chết. Mồ hôi nó vả ra như tắm khắp thân mình. Trên trán T., từng giọt mồ hôi đọng lại, lớn dần, gần nhau hơn, nối lại, rơi chảy xuống mũi, nhểu từng giọt một từ chóp mũi xuống sàn tre theo nhịp thở hay cái vật mình của bệnh nhân.
Minh tìm chai dầu Song Thập trong túi quần áo của mình để trên đầu nằm, đổ vào tay, nhịn thở thoa lên trán, lên màng tang, lên cổ T. và hỏi, giọng run run:
- Bây giờ sao, Đỡ chưa?
T. cố gắng gật đầu, mặt không ngửng lên, vẫn thở hào hễn, mắt vẫn nhắm nghiền. Câu hỏi và câu trả lời vẫn không cho biết gì hơn về bệnh trạng. Dầu nóng làm T. đỏ mặt ra, cái đỏ trong cái xanh. Từ chập tối đến giờ, T. thổ tả như vậy hơn mười lần, lần nào T. cũng than: “Đau bụng quá, chân tay run hết trơn”, nhưng không nói được gì hơn nữa. Anh nghe hết những lời bàn tán của mọi người, nghe hết những câu hỏi, nhưng anh mệt quá nên không buồn trả lời. Bụng anh như cào như cấu, ruột gan như bị kéo lên, xoắn lại và dồn vào nhau. Anh thay đổi thế nằm luôn, nhưng vẫn thấy vô cùng khó chịu.
Lúc 4 giờ sáng, tên cán bộ hướng dẫn cùng với một thanh niên mặt mầy sáng sủa ra vẻ dân “ngụy”, bước vào trại. Y vui vẻ:
- Có bác sĩ đây rồi, khỏi lo nữa.
Bác sĩ hỏi qua căn bệnh từ chiều đến giờ, rồi lặng lẽ sửa soạn một mũi thuốc chích.
Mọi người đều biểu lộ vẻ mừng rỡ, hy vọng long lanh trong khóe mắt. Họ nhìn viên bác sĩ mà họ biết rằng cũng thuộc thành phần với mình, như nhìn một người đồng nghiệp có tài đang ra sức chữa cho đồng nghiệp gặp hoạn nạn. Như cảm thấy bất an vì mọi người quá tin tưởng vào mình, bác sĩ nói, giọng buồn buồn:
- Mũi này chỉ là thuốc khỏe. Ở đấy không có cơ số dịch tả. Thuốc hết từ tháng trước, đã báo cáo hai lần, y tế thành đều trả lời nhất trí, nhưng phải chờ đợi phân phối kế tiếp; hiện giờ số lượng dành cho thanh niên xung phong đã hết.
Rồi anh chép miệng:
- Không biết cho đến bao giờ. Mấy ngài ấy làm ăn chẳng biết ra sao cả. Hy vọng đến sáng, mình dùng thuốc Nam! Nếu không xong nữa, phải tìm xe cho về thành phố. Tuần trước tôi có một trường hợp tương tợ mà đành chịu! Cậu ấy rất khỏe mạnh. Dũng sĩ đào kênh đó!
Ngừng một chút, bác sĩ nói tiếp:
- Còn anh T. tôi hy vọng anh ấy sẽ qua khỏi vì mình phát hiện kịp thời và mai mình có xe về thành phố.
Không muốn nghe thêm, Minh rời khung cảnh buồn bã của trại, lững thững đi vào bóng đêm. Gió lạnh của những ngày giáp Tết làm anh rùng mình. Một cách vô ý thức, anh bước chân về phía đám rẫy cao, nơi có một thửa đất khô, cỏ như thảm mạ. Những buổi tối, trước giờ ngủ, anh, T. và một vài người bạn khác thường ra quây quần nhìn sao, chia nhau từng điếu thuốc lá, kể chuyện phiếm và chửi lén chế độ. Đêm nay, trăng nhạt không sao, gió nhiều, trời đen xậm. Anh lẩm bẩm: “Còn mấy ngày nữa thì Tết rồi”.
Nghĩ đến Tết, anh bỗng ngao ngán, Tết này là Tết thứ ba phải chịu đựng vì một sự quyết định. Bạn bè gần như mất hết. Còn lại quá ít. Anh cảm thấy cô đơn và nghĩ đến T. Nó sẽ ra làm sao? Thuốc trị không có, thuốc cảm cũng không. Số mạng tùy thuộc mấy chai dầu Song Thập, Nhị Thiên Đường! Nếu không bớt, khoảng 4 giờ chiều nó mới được chở về Sài gòn, biết còn kịp không?
Tiếng ếch nhái kêu rầu rĩ càng làm anh bực bội. Do thói quen, Minh cho tay vào túi quần móc thuốc và hộp quẹt. Tay anh chạm vào cái Zippo lạnh ngắt của T. đưa hồi chiều. Mẩu chuyện T. kể nhảy vào trí anh: mấy hôm trước:
- Cuả đào tặng đó, bốn năm rồi không động tới. Nàng tặng với lời dặn nghiêm chỉnh và chân thành: “Anh đừng hút thuốc. Mỗi lần thèm, tìm quẹt, anh cầm quẹt lên, nhớ đến em, yêu em thì đừng nên dùng nó, để giữ sức khỏe”. Bây giờ thì không dùng được. “Nhặt điếu thuốc, vạn cổ sầu” mà. Cổ nhân đã chẳng dạy là gì? Em theo cha mẹ di tản từ dạo đó. Tin tức gì đâu? Mình ở lại với mấy thằng cộng sản “thầy chạy” nầy. Hết ý kiến!!!
Minh mỉm cười với mình. Gằn giọng với câu “có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi” (H.M.T). Tiếc quá, lúc nó nói, vì cả bọn ngồi trong bóng tối, mình không nhìn đươc măt nó.
Anh châm thuốc. Thuốc đắng nghét và cháy bùng gần hết nửa điếu, mùi diêm sinh lẫn với mùi va-ni làm anh bực dọc. “Capstan lá vàng” gì mà như hạch! Minh búng ngón tay, đóm lửa vạch một vòng cung trong không gian.
Côn trùng vẫn hòa âm điệu nhạc đêm thôn dã, sáng tác từ muôn thưở. Minh lắng tai nghe, anh phân tách từng tiếng dế, tiếng ếch, tiếng ễnh ương. Anh tự đùa vói mình bằng cách để ý nhóm nào lớn tiếng, nhóm nào nhỏ hơn, chỗ nào ứng trước, chỗ nào hòa theo. Lòng anh dịu lại dần, bộ mặt hốc hác của T. chạy khỏi tâm trí anh. Bỗng Minh nghe như có tiếng thì thầm đâu đó. Anh ngồi im. Tiếng thở dồn dập và tiếng động trên lá khô. Anh thở dài anh bước xéo ra xa. “Tụi nhỏ”, thôi để chúng bù lại nỗi thống khổ ban ngày. Anh tìn chỗ nằm dựa lưng vào gò mối, dưới chân vạt đất cao, nhìn đường viền cùa mô đất in một vòng cung đậm lên trên nền trời. Khung cảnh dẹp và nên thơ khiến anh quên mọi vật để nghĩ đến sự tuần hoàn của vũ trụ, hết ngày sang đêm, hết Đông sang Xuân, nghĩ đến mấy câu thơ của các thiền tăng Việt đời Lý:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.[1].
Hay:
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô,
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.[2].
Từ đó, anh trầm mình trong những suy tư về triết học và tôn giáo, nghĩ đến sự bao la của trời đất, nghĩ đến sự hòa hợp tâm hồn mình với vũ trụ, nghĩ đến cái nhỏ nhoi của con người trước cảnh vô biên. Anh thầm trách tại sao thi sĩ không có những bài thơ hay về đêm xuân vắng.
Mắt anh chợt bắt gặp sự đổi thay: vòng cung mô đất in trên nền trời không phải đứng yên mà hình như thay đổi. Anh ngạc nhiên, trố mắt nhìn kỹ hơn. Không phải một, mà hai ba chỗ khác nhau, lay động nhịp nhàng. Anh đã hiểu. Một sự bực dọc trằn lên cổ. Bọn anh bị đầy lên đây để có những thằng nằm chờ quyết định của Tử thần. Tụi trẻ bị đưa lên đây để bước chân vào vũng lầy vật dục. Cuộc đời chúng rồi sẽ ra sao? Đảng chôn tương lai và sức khỏe của chúng một phần, tạo hoàn cảnh lửa rơm để chúng đốt đi phần còn lại. Phải chăng “thiên đường cộng sản” là vậy? Hay là họ lợi dụng hoàn cảnh này để lôi kéo thanh niên, thiếu nữ nhẹ dạ, nhìn gần?
Minh nhỏm dậy, bỏ lại sau lưng khuug cảnh và bóng đêm đồng lõa, đi lần về phía ánh đen lù mù rọi qua vách lá của trại với nỗi buồn đang mất mát một thứ gì quý báu.
Một người bạn đứng dựa lưng vào cột tre nói với anh sau cái chép miệng:
- Coi mòi không xong rồi! Điệu này trong mình nó sẽ tiết nước…
Người nói tế nhị diễn tả ý nghĩ mình, nhưng cũng đủ làm anh đau nhói trong tim.
Bác sĩ giờ đây đang nói chuyện với tên cán bộ hướng dẫn. Đó đây, từng toán tụm năm tụm ba. Mọi người đều thầm thì vừa đủ nghe. Minh đến trước võng người cán bộ, mở đầu:
- Sao kỳ quá anh. Anh cũng ăn mận với nó mà sao một mình nó bị…
Tên cán bộ rút chân ra khỏi đôi dép râu, co lên, khoanh lại trên võng:
- Vâng, mận của một cậu thanh niên xung phong bên trại F biếu, tôi có mời anh ấy hai quả. Có nhẻ tạng anh ấy không được khỏe. Bản thân tôi, tôi đã ăn nhiều hơn mà có sao đâu! Sự di hóa[3] vẫn bình thường!
- Bố mầy! Chắc mầy thù nó rồi cho nó ăn mận đó chứ gì? Minh chửi thầm rồi hỏi người bác sĩ:
- Anh thấy có chút khả quan nào không?
Người thanh niên cười gượng:
- May ra! Nhưng tôi ngại không tìm được phương tiện chuyên chở trong trường hợp tình trạng anh ấy nặng hơn. Về vấn đề vệ sinh chung, ngày mai chúng ta không thể lấy vôi bột để khử trùng, vì anh thủ kho đang đi phép. Tôi hơi lo về chuyện này!
Minh không nói gì, Tụi nầy như vậy đó. Bao nhiêu vấn đề đặt ra vì sự ngu xuẩn, bần tiện và không tiên liệu của người có trách nhiệm, chỉ biết khai thác mà coi thường sinh mạng và sức khỏe của người góp công. Tên cán bộ, giọng nhẹ nhàng nhưng chắc nịch:
- Các anh đừng ngại, không việc gì đâu. Đợi đến mười giờ hãy hay. Tôi nghĩ là sáng nay anh em mình vẫn công tác như thường lệ. Chúng ta không thể vì một cá nhân mà không làm tốt công tác đã hoạch định.
Một sự uất nghẹn chạy lên tân cổ Minh, anh thất vọng hoàn toàn. Công tác. Công tác. Chỉ có cái ao cá, không biết lúc nào mới có cá để nuôi, mà làm như việc vá trời lấp biển, Nhưng anh không trả lời. Vô ích thôi. Bọn anh không có quyền cãi. Kẻ thất trận nói khác, có nghĩa là chống lại. Anh nghĩ đến những người bạn cùng mang tiếng học tập và lao động như bọn anh, nhưng còn khổ vì mất tự do hơn nhiều. Ở đây, phần nào bọn anh còn được đối đãi ngang hàng mặc dầu trên hình thức. Họ phải đối xử như vậy để lôi kéo trí thức, để làm một món hàng trưng bày với dân chúng và những tên ký giả ngoại quốc dễ tin. Hàng ngũ trí thức đối với chúng còn có một giá trị nào đó, mà vì chiến lược, chúng phải liên hiệp giai đoạn, chứ một người đơn độc như T., như anh, chúng sẽ không ngần ngại hủy diệt khi cần.
Anh nhìn lại T. Nó nằm đó co quắp, hổn hển. Anh liếc mắt qua tên cán bộ đang thản nhiên phì phèo điếu thuốc “Sông Hương”, bộ mặt không biểu lộ một tình cảm tương lân nào. Mắt anh bỗng cay xè và ươn ướt… Nó còn căm giận T. “ Ngoài thì thơn thớt nói cười” nhưng bên trong nó chưa quên đâu. Về Sài gòn sớm hay trễ, ảnh hưởng quyết định sinh mạng T. nằm trong tay nó. Nhưng biết làm sao?
⁂
Buổi thảo luận hôm đó trở nên ngột ngạt và độc thoại sau khi T. đặt câu hỏi với người cán bộ hướng dẫn tổ:
- Thưa anh, anh luôn đặt nguyên tắc thảo luận nghiêm chỉnh trong tinh thần học hỏi sửa sai. Tôi xin với tinh thần đó, xin anh giải thích cho tôi những điều sau. Mà tôi suy nghĩ mãi vẫn chưa tìm ra câu trả lời. Vấn đề đặt ra như thế này: Karl Marx bảo laoif người đầu tiên là cộng sản nguyên thủy, rồi chuyển sang chiếm hữu nô lệ, biến thành quân chủ phong kiến rồi tư bản bốc lột, sau cùng tiến lên chế độ cộng sản đúng nghĩa. Chế độ cộng sản là chế độ sau cùng cũng và tiến bộ nhất của loài người. Thưa anh, trong bài biện chứng pháp, anh có nhấn mạnh rằng không có chân lý nào vĩnh cữu, chỉ có chân lý của giai đoạn phù hợp với trình độ tri thức lúc đó của con người. Anh đã chứng minh điều này một cách rõ ràng, hùng hồn, bằng sự thay thế Bà-la-môn giáo bởi Phật giáo. Anh cũng nhắc đến quan niệm trái đất quay xung quanh mặt trời, thay thế mặt trời xoay quanh trái đất trước đó. Trên lãnh vực khoa học, anh nhắc đến định luaatjvanj vật hấp dẫn của Newton, thay thế định luật Kepler, rồi nguyên lý tương đối của Einstein thay thế định luật Newton… Tôi tạm gọi câu “không có chân lý vĩnh cữu”là nguyên lý căn bẳn của luận lý học duy vật. Tôi không muốn gọi nó là định đề, bởi vì gọi như vậy nó sẽ rơi vào trường hợp tương đối, như các định đề toán học của Euclide, Lobatchetsky, Riemann…và như vậy là bước vào chủ nghĩa hoài nghi, với câu hỏi nguyên lý trên có chi phối chính nó hay không? Một câu hỏi mà tôi không muốn đặt ra…Bởi vì sự thắc mắc của tôi không nằm ở đó. Bây giờ không phải lúc để thắc mắc về triết học và siêu hình học. Câu hỏi của tôi nhằm mục tiêu tìm hiểu triết lý xã hội học của Marx, có chịu chi phối bởi nguyên lý luận lý theo biện chứng pháp không?
Câu thứ hai như sau:
Mọi sự phân loại đều dựa trên một tiêu chuẩn. Marx trong sự phân loại tiến trình xã hội loài người, dựa trên tiêu chuẩn kinh tế, ,ói hẹp hơn dựa trên sự tư hữu tư bản . Auguste Comte trước đây cũng có một sự phân loại như vậy nhưng dựa trên tiêu chuẩn tinh thần. Gần đây, có một tác giả Mỹ cho rằng xã hội loài người tiến từ chế độ không sản xuất sang sản xuất rồi sang tiêu thụ. Giai đoạn không sản xuất ngang hàng với giai đoạn đầu và hai, the sự phân loại của Marx. Giai đoạn tiêu thụ có thể coi như giai đoạn cộng sản đúng nghĩa. Sự phân loại này dựa trên tương quan của con người và sản phẩm. Vậy, có chăng vấn đề danh xưng khác nhau tùy theo tiêu chuẩn dùng làm căn bản để phân loại? Có chăng ta chỉ cải nhau vì khác danh từ trong khi cái được chỉ định chỉ là một?
T. nói thao thao, càng nói cang hăng say. Lúc anh mào đầu, tên cán bộ còn dùng cái cười giả dối ngoại giao để tỏ thái độ thông cảm, cởi mở; nhưng về sau, y đổi sang chăm chú, rồi khó chịu. Lúc T. chấm dứt câu hỏi, lớp học yên lặng như tờ. Tên cán bộ thay đổi thế ngồi nhiều lần. Hắn hết đưa ngón tay trỏ của bàn tay trái sửa gọng kiếng, lại dùng tay mặt giở giở mấy cuốn” Lê-nin tuyển tập” in từ Mas-cô-va mà hắn lúc nào cũng trân trọng mang vào lớp. Năm phút trôi qua, không khí trở nên ngột ngạt nặng nề. Minh thương hại khi nhìn mấy giọt mồ hôi tuông rã trên đầu mũi và mép của tên cán bộ. Một người bạn ngồi gần, kề tai anh nói nhỏ:
- Bố khỉ! Thằng T. đặt vấn đề như vậy, thằng ngu đó làm sao hiểu nỗi,. Chỉ chọc cho nó đì mà thôi.
Minh đồng ý:
- Thắc mắc nhiều chi cho thêm tức. Nó là một loài két; vấn đề như vậy, phải hỏi đàn anh khi-đã-qua-bảy-bước-nhảy-vọt mới đã. Vả lại nó chỉ là đảng viên mà thôi. Dầu cho nó cao cấp cách mấy cũng chỉ là đảng viên chớ phông phải là Đảng. Nói với nó vô ích; những vấn đề lý thuyết như vậy, phải nói với Đảng.
Người bạn nói như than:
- Mà nào ai thấy Đảng ở đâu, chỉ thấy đảng viên!
Lúc này, tên cán bộ đã lấy lại được phần nào phong thái của mình. Hắn mở đàu bằng một nụ cười với những từ ngữ thật hoa mỹ để ngợi khen T. Nhưng sau ssos, hắn cả vú lấp miệng em bằng những câu: “đặt vấn đề không đúng cách”. “Chìm sâu trong kiến thức tư bản sai lầm”, “suy luận duy tâm”, “ chưa phối hợp được cách suy luận theo biện chứng pháp”, “chưa có quan điểm đứng đắn về duy vật lịch sử”…
Minh nghe một cách mơ hồ. Âm thanh vang vang vào tai anh như từ cõi âm u nào đó vọng lại. Các tiếng “Các Mác đã nói…”, “đồng chí Le-nin vĩ đại đã dạy…” “Bác và Đảng..” lẫn lôn với ý nghĩ thằng T. sẽ bị cho nghỉ. Mình sẽ phải đạp xe đến lớp một mình, thiếu bạn tán dóc quên đường xa, giờ giải lao thiếu thêm một đứa đồng tâm để trao đổi một vài câu diễu cợt về những lời nói phét của những tên phụ trách giảng bài? Anh thở dài…
⁂
Sau khi lao động buổi sáng trong ngày xong, Minh chạy ù về trại,. Anh không để ý bộ mặt lem luốc của mình. Anh nóng lòng về số phận của T. Trên giường, T. vẫn nằm ở vị thế cũ, người anh như tóp lại, uể oải, khô héo. Cạnh đó, một người con gái đứng khóc, Chào hỏi xong, nàng nức nở:
- Em là em gái của anh T. Mai em phải lên đường công tác xa, độ ba tháng mới được về, em lên thăn anh ấy trước khi đi.nhân tiện đưa lá thư của chị T.Y. từ Mỹ gửi về. Không dè anh ấy bệnh nặng như vậy!
Minh, mắt ráo hoảnh, hỏi trong tiếng nấc:
- Mầy biết hết cả phải không T.?
T, gật đầu thều thào:
- Thư đến quá muộn. Tao e không qua nổi, nhưng thôi cũng được. Có còn hơn không. Ít ra tao cũng không chết trong lòng một người. Tao là phật tử thuần thành, như mầy đã biết.Từ tối, tao đã dọn mình, nhưng chưa được thanh thản tuyệt đối. Giờ thì rất hoàn hảo. Mầy nhớ bài kệ trước khi tịch của Liễu Quán hòa thượng chứ? Tao mạn phép sửa lại cho hợp với tao. Bài kệ đến với tao rất hợp lúc. Hợp lúc như bức thư của T.Y. Rất tốt! Rất tốt!
T. đọc luôn:
Tam thập dư niên thế giới trung
Không không sắc sắc diệc dung thông
Kim tiêu mãn nguyện hoàn gia lý…[4]
Đến đây T. không đọc nữa. Minh thấy đô vai bạn run lên rồi giật mạnh. Anh nghe rõ một tiếng nấc to như có gì chận ngang cổ T. Tiếp theo đó là một sự yên lặng hoàn toàn.
Ngoài kia có tiếng cười vui vẻ của vài người “Thanh Niên Xung Phong”:
- Sướng quá! Còn hai bữa nữa là được phép về ăn Tết rồi!
Mọi vật mờ đi dưới mắt Minh. Anh gục mặt vào tay…
─────────────
[1] Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa nở (Quên tác giả).
[2] Bài thơ của Vạn Hạnh thiền sư. Ở đây chỉ lấy ba câu dưới:
Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời
Sá chi suy thạnh, việc đời
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
(Thượng tọa Mật Thể dịch)
[3] Một vài tên cộng sản văn hóa, dùng chữ “di hóa” để chỉ quá trình tự tiêu hóa đến sự thải chất bã bằng đường đại, tiểu tiện.
[4] Nguyên văn gồm 4 câu:
七十餘年世界中
空空色色亦融通
今朝願滿還家裏
何必奔忙問祖宗
“Thất thập dư niên thế giới trung,
Không không sắc sắc diệc dung thông,
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý,
Hà tất bôn mang vấn Tổ tông”.
Đại ý: Hơn ba mươi tuổi (nguyên văn của thiền sư Liễu Quán là bảy mươi tuổi) sống trong trần thế, đã hiểu rõ mọi sự có có, không không. Sáng nay toại ý về quê cũ. Cần gì phải đôn đáo hỏi chuyện ngày xưa.