Giới thiệu một tuồng xưa, như là nén hương dâng thầy nhân ngày giỗ đầu

Năm 1912, ông cựu chánh tổng Lê QuangChiểu đem bản văn tuồng hát bội Lý Thiên Longin ra chữ quốc ngữ. Trước đó ởdạng chữ Nôm chép tay, tác phẩm nầy phổthật là giới hạn, chẳng thế mà ông mới nóibằng một cụm từ rất đau lòng: Nay tôi đặng bổn sót... Bổn sót là một tập văn hiếm, ítngười có, lắm khi chỉ còn một bản thôi, cóthể rách mất nhiều trang nhiều chữ.... Từnăm đó tuồng Lý Thiên Long mới đượcphổ biến rộng rãi đến số đôngngười ham chuộng văn chương và tuồng hát.

Tuy nhiên, với tinh thần in ấn củathập niên đầu thế kỷ 20, bản quốcngữ của ông Lê Quang Chiểu có nhiều điềucần phải điều chỉnh về chánh tả,về cách ngắt câu và nhiều chữ viết theogiọng đọc quá thuần túy Nam Kỳ củathời đó. Thiệt sự mà nói, gần một thếkỷ trước, nguyên việc phiên âm ra quốc ngữ, sửa lại cho xuôi câu thuậný - cách nói và cách làm việc của Lê Quang Chiểu - vàđem in đã là một công trạng với văn hóanước nhà, ta không thể đòi hỏi nhiều hơnvề tính chất chính xác của một tác phẩm vàothời mà tình trạng chữ quốc ngữ còn phôi thai vànhà văn chỉ mới có những khái niệm thật mơhồ về văn học Việt Nam, nhất là nhữngtác phẩm ở dạng quốc ngữ.

Cho phổ biến lại tuồng Lý Thiên Longlần này, chúng tôi chỉ làm những công việc thậtđơn giản: sưu tầm tài liệu xưa,ngắt câu cho hợp lý, trình bày rõ ràng theo lối phú củatuồng hát bội, với những vế đốixứng và dùng những thể chữ khác nhau tùy theogiọng nói của nhân vật - nhứt là những chỗhường tán - cốt sao cho người đọcbản văn dễ dàng lãnh hội ý của ngườiviết tuồng. Nếu tưởng tượng rađược giọng của nhân vật thì càng tốt.

Một vấn đề căn bản là cónên sửa chữa cách viết chánh tả củangười xưa vốn quá tuân thủ theo giọngđọc địa phương hay không. Cuối cùng chúngtôi quyết định sửa cho hợp với cáchviết chuẩn ngày nay vì nếu cứ dựa trên lý dotồn cổ, nghi dĩ truyền nghi, in rập lạibản cũ thì thật là quá dễ, nhưng sựkhiếm khuyết của bản in xưa vẫn cònnằm nguyên ở đó, người tiếp xúc vớivăn bản có thể hiểu lầm năm ba chữ ítdùng, một vài câu khó hiểu, thậm chí có thể hiểusai những ý quan trọng. Và bản tuồng vì vậymất cái đặc sắc của nó. Cũng trongchiều hướng đó, vài sơ chú cần thiếtcũng đã được thêm, vì bản in 1912 không có bất cứ một chúthích nào. Phần Hán văn của các đoạn hát khách(loạn), ngâm, xướng, đáng lẽ phảiđược tái lập đầy đủàiảithích, tôi tài hèn, không dám võ đoán, chỉ làm đượcbấy nhiêu thôi, với những dè dặt thườnglệ.

  * * *

Trước khi in tuồng Lý Thiên Long nầychắc rằng ông Lê Quang Chiểu đã sửa lạibổn cũ đầy đủ ba hồi (ông nói là toàntruyện đủ ba thứvà nói luôn những chi tiết quan trọng trong nhữnghồi sau) nhưng vì lý do nào đó bản in năm 1912của ông chỉ thấy hết hồi nhứt mà thôi --cuốn thứ nhứt. Cũng có thể những cuốnthứ hai, thứ ba đã xuất bản rồi mà chúng tôitới giờ này vẫn chưa tìm được. Khổnạn đao binh và trình độ dân trí của đấtnước ta ảnh hưởng lên sự tồn vongcủa sách vở là vậy. Nay chúng ta là nhữngngười đi sau, còn baonhiêu cứ dùng đở bấy nhiêu. Người nầytìm, người kia tìm, được gì hay nấy. Ít cònhơn không, đứa con ốm yếu đui què mẻsứt vẫn là con mình, không thể bỏ cho mất luôn.

Ông Chiểu gọi loại hình của tácphẩm này khi thì là tuồng,khi thì là truyện. Khiđề tên tác phẩm bằng chữ quốc ngữ ôngxài chữ tuồng (Tuồng LýThiên Luông), khi dùng chữ Hán ông viết bằng chữtruyện (Lý Thiên Long Truyện天龍傳). Lý dovì ông dịch cái tựa ra chữ Hán, chứ không phiên âmtừng chữ như chúng ta làm ngày nay. Bây giờ trongvăn học, tuồng vàtruyện là những khái niệm hoàn toàn khác nhau vềhình thức. Tuồng là một câu chuyện vớinhiều tình tiết dùng để diễn, để nói,để nghe, có công dụng phục vụ đồngthời một số đông quần chúng (một buổitrình diễn). Tuồng dính liền với sân khấu,diễn viên và âm nhạc, cần thêm nhiều ngườiphụ để dựng tuồng với dụng cụ, ytrang và không gian. Khi tuồng không được trìnhdiễn, nó nằm trơ dưới dạng một vănbản văn học và chỉ phục vụ cho mộtngười đọc mà thôi thì nó vẫn là một bản tuồng vì tínhcách đối thoại, ca diễn vẫn ẩn tàng trongkịch bản. Truyện, trái lại dùng đểđọc, để xem, phục vụ một lầnmột người hay vài ba người (một lầnđọc). Truyện dính liền với vănchương và tư tưởng, giao tiếp thẳngvới độc giả và thính giả mà không cầnnhiều đến những thứ phụ thuộc khác ngoàivăn bản. Truyện có thể gần với truyệnkể, chủ yếu là sự mô tả tình tiết củatác giả, đối thoại không phải là phần chánh,có âm nhạc phụ họa càng tốt nhưng không nhấtthiết. Truyện biến thành tuồng hay tuồngbiến thành truyện đều phải đượcviết lại theo kỷ thuật của mỗi thểloại.

Nghe nói tuồng Lý Thiên Long này còn có bảnquốc ngữ khác với tựa là Tuồng Tứ Linh. Cũng như trên, cho tớigiờ này, chúng tôi chưa tìm thấy.

Trong sưu tập 41 tác phẩm Nôm viết tay-- hầu hết là tuồng hát bội--- mà Thư ViệnAnh Quốc ở Luân Đốn (British Library) làm bản saotặng cho chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa trướcđây (1971) -- dưới thời Quốc Vụ KhanhVăn Hóa Mai Thọ Truyền -- tôi nhớ mình có thấytuồng Lý Thiên Long trong danh sách, nhưng cho đếngiờ vẫn chưa được cơ may có bản saođể phiên âm hay ít ra cũng để so sánh vớibản quốc ngữ của ông Lê Quang Chiểu.

Công việc sửa lại bổn cũcủa giai đoạn đầu thế kỳ 20 nói chungcó giá trị văn chương đến mứcđộ nào đó, không ai có quyền xổ toẹt các côngtrình này. Việc làm của những tác giả sửalại bổn cũ ở giai đoạn đầuthế kỷ 20 là công việc đáng hoan nghênh hơn chêtrách. Cho nên có hay không có bản Nôm, các bản quốcngữ về tuồng hát bội, truyện thơ,thơ-tuồng vẫn đáng được trân tàng.Bản quốc ngữ của Lê Quang Chiểu vì vậyđáng được coi là một trong những thoạirất quan trọng về tuồng Lý Thiên Long. Giớithiệu bản Nôm và bản phiên âm là chuyện cầnthiết, nhưng giới thiệu các bản quốcngữ cũng là việc đáng làm.

Ông Lê Quang Chiểu rất có công khi máchrằng mình nghe người lớp trước nói lạitác phẩm nầy do Tổng Đốc An Giang Cao HữuDực viết ra, về sau ông Nguyễn Văn Hàngnhuận sắc, mình nhuận sắc một lần nữacho tráng câu xứng đối rồi cho in bản quốcngữ. Nếu không có lời nói đó bây giờ chắcrằng ta không thể nào xác định một chút gìvề tác giả....  Ông NguyễnVăn Hàng chỉ là một nhà nho bình thường nào đóở cuối thế kỷ 19 ta khó tìm tiểu sử. Tìmtiểu sử ông Cao Hữu Dực không khó, Quốc Triều Đăng Khoa LụcQuốc Triều Hương KhoaLục cũng như các quyển sử triềuNguyễn chắc chắn không nhiều thì ít có nhắcđến ông. Một vài tài liệu đó đây ghi ông làngười quê huyện Phong Điền, Thừa Thiên,đậu Hương Tiến năm Ất Dậu 1825, làmchức Bố Chánh Sứ An Giang năm Mậu Thânđời Thiệu Trị (1848) sau đó đổi làm ÁnSát Sứ cũng tỉnh An Giang. Khi mất đượctruy tặng Hiệp Biện Đại Học Sĩ.Vậy ông là người của văn học và củaxứ chuyên về tuồng, lời mách rằng ông viếttuồng Lý Thiên Long này có thể tin được.

Trường hợp Cao Hữu Dực cũnggiống như trường hợp Ngụy KhắcĐản với tuồng NgũHổ Bình Tây hay Bùi Hữu Nghĩa với Tuồng Tây Du. Người takhông thấy tên tác giả ở trên bản Nôm, cũng khôngthấy nhắc đến tuồng Ngũ Hổ Bình Tây khi đọc về tiểusử của Ngụy Khắc Đản, chỉ thấytên ông ở một mẩu quảng cáo hồi đầuthế kỷ về bản in quốc ngữ củatuồng này. Về Tuồng TâyDu, cũng tương tợ, bản Nôm không có dòng nàođề tên tác giả, trong khi giới thiệu tuồng Kim Thạch Kỳ Duyên, ông NamCư Nguyễn Đình Triêm, hậu duệ củaNguyễn Đình Chiểu, một nhà nghiên cứu vănhọc Miền Nam mới nói lần đầu tiên rằngBùi Hữu Nghĩa cũng là tác giả tuồng này, ông khôngcho biết mình lấy chứng cớ từ đâu, dầurằng trước đó nữ sĩ ĐạmPhương viết trong Nam Phong Tạp Chí có nhắcđến tuồng Tây Du nhưng đã không nói gìđến tác giả. Văn học sử Việt Namđầy rẫy những điều bắt buộcphải tin với một chút nghi ngờ tương tợnhư vậy. Và chúng ta chỉ còn biết dựa trênnhững điều mách khả tín mà cũng khả ngờcho đến khi nào có những tài liệu gì chính xác hơnđược phát hiện.

Trong khi đọc báo Nông Cổ Mín Đàm, chúng tôi thấy trên số 417,ngày Thứ Ba 22 tháng Ba năm 1910 và những số kếtiếp, lúc Chánh Chủ Bút Lê Văn Trung và Phó Chủ BútNguyễn Chánh Sắt, mẫu quảng cáo như sau : Những tuồng mới inđây là của ông Cao Hữu Dực, cựu TổngĐốc trấn tỉnh An Giang. Tuồng Ô Thước, bộ 4 thứ 0$80, tuồngNgũ Hổ Bình Tây 1, 2, 3 giá 0$25, Tuồng Tống TừVân đang in… như vậy thì chúng ta biếtđược rằng tuồng TốngTừ Vân và tuồng ÔThước là của Cao Hữu Dực. Còn tuồng Ngũ Hổ Bình Tây thìtrước đây GS Lê Ngọc Trụ có tìmđược mẫu quảng cáo nói là của NguỵKhắc Đản. Tôi giải quyết chuyện mộtbản tuồng hai tác giả nầy bằng giảthuyết có hai bổn tuồngNgũ Hổ Bình Tây khác nhau. Tạm gọi bảnquốc ngữ mà GS Trần Văn Hương giớithiệu do nhà xuất bản Khai Trí in là bản NguỵKhắc Đản, còn một bản khác nữa là bảnCao Hữu Dực (hay ngược lại). Tiếc thay, ngàynay ta thấy mẩu quảng cáo, nhưng quyển sách thìchẳng thấy đâu! Chờ những cơ may khácvậy.

Viết tuồng bát bội là sởtrường của người miền Trung, ông CaoHữu Dực khi làm quan trong miền cực Nam củađất nước có thể đã viết tuồng vìnhớ quê hương, nhớ đến một phong vịvăn nghệ đặc biệt của nơi chôn nhaocắt rún. Cũng có thể ông viết như mộtbộc bạch nỗi lòng trung quân ái quốc vì đờikhoa hoạn của ông vốn nhiều truân chuyên và lắmlần bị hiểu lầm cùng dị nghị. Mộtkiểu Ly Tao của Khuất Nguyên! Những hìnhtượng ông dùng trong tuồng này có thể bị chê tráchlà không mới mẽ gì, ta thường thấy các nhânvật và sự kiện tương tợ ở cáctuồng khác trong kho tàng tuồng hát bội của ViệtNam: chánh-- tà, đi thi vì mẹ khuyến khích, dựđịnh cướp ngôi và những biến chuyểnchung quanh cuộc cung đình chính biến với các nhânvật trung thật trung, nịnh thật nịnh và cácbậc tiên thánh nhúng tay vào cõi phàm để thúc đẩycho những việc trung dũng sớm thành tựu.

Con người thường bị giớihạn bởi môi trường chung quanh. Tất cảtuồng khác nói chung đều đi theo một mô thứcthì ta không thể đòi hỏi một Cao Hữu Dực hayai khác của thời kỳ này viết ra những gìthật là mới mẻ so với thời đại.

Tiếc rằng bản quốc ngữnầy chỉ có hồi Thứ Nhứt (hồi một) màthôi. Nếu ông Lê Quang Chiểu trước đây côngbố luôn các hồi kế tiếp thì có nghĩa là ôngđã sửa lại luôn các hồi 2 và 3. Sự sửađổi nào cũng đem theo cái hay riêng, nguyên bảnchữ Nôm nếu được phiên âm chắc chắngần ý tác giả nhưng sẽ không hay bằng bản đã được nhuậnsắc. Tiếc thay, chuyện đó đã không xảy rahay đã xảy ra rồi mà chúng ta chưa có hân hạnh tìmthấy.

Chúng tôi cố gắng giải quyếttrường hợp này trong những năm tớiđể cống hiến bạn đọc mộtTuồng Lý Thiên Long đầy đủ, có đượccả bản Nôm càng tốt.

Để dễ dàng cho ngườiđọc, tôi phân hồi nầy ra làm 13 tiết nhỏ tùytheo cảnh trong tuồng. Các tiết này dài ngắn khác nhau,kết chung lại thành ra những diễn biến củatoàn hồi. Nhắc lại, trong tuồng hát bội,lời nói là yếu tố quan trọng hàng đầu, hànhvi của nhân vật hay cả sự kiện xảy racũng đều được tác giả chuyển hóathành lời cho nên dưới con mắt ngày nay ta có thểthấy nhiều tiết dư thừa, nhưng thật ramỗi tiết đều có giá trị nối kếtvới các tiết khác tạo nên một chuổi sựkiện cấu thành tuồng, khiến cho phần đôngkhán giả bình dân dễ dàng nắm vững sự diễnbiến của toàn tuồng. Cũng nên nhắc lạingười xưa đi coi hát bội thường khôngnhất thiết phải đến rạp lúc tuồngmới bắt đầu, họ có thể đếnbất cứ lúc nào vì nhiều lý do trong đó có lý do bóituồng, những lời nói dư thừa chắc chắnlà có liên quan ít nhiều đến chuyện bói tuồng.

Hát bội cũng không có đoạn mởđầu giới thiệu về thời gian, về nhânvật, tất cả những khái niệm này mộtlần nữa được tác giả dùng lời nóicủa nhân vật để giới thiệu nên phảiđược chuyển thành lờigiáo đầu khi nhơn vật mới xuất hiện.Ta sẽ không lấy làm lạ khi thấy nhân vậtbước ra xưng tên tuổi quê quán, sở thích,điều mình kỳ vọng, ngay cả những âm mưuđen tối vốn là những chuyện.... không cầnnói ra đối với nhân vật trong tiểu thuyếthay kịch ngày nay, ngược lại đó là điềucần thiết sinh tử của thể loại hátbội, cần thiết ở thời kỳ hát bộithạnh hành cũng như khi tàn lụn, sở dĩ tathấy nó quê quê dư dư vì ta nhìn nó với nhãn quancủa người đời nay vốn quen với hìnhthức cấu tạo của kịch tây phươngđã qua quá nhiều cải biên, chỉnh đốn ...

Các tiết của hồi Thứ Nhất nàycó thể được chia như sau đây, lời tómđại ý của tiết là của chúng tôi:

I.1 Nghe lời mẹ, Lý Thiên Long tầm sưhọc đạo.
I.2. Đoán việc sau, Lý Chơn Nhơn khuyênđệ tử ứng thi.
I.3. Cần hiền ngỏ, TốngVương sai mở hội tuyển nhân tài.
I.4. Vưng lời khuyên, Lý Thiên Long lênđường tìm sự nghiệp.
I.5. Trễ hội thí, Vương Họa Lânngao du sơn thủy.
I.6. Hiểu lòng nhau, Đào ThếSĩ/Vương Họa Lân già trẻ kết thân.
I.7. Kết quả kỳ thi, Lý Thiên Long thànhQuấc Trạng.
I.10. Ngừa phản thần, Lý mẫudạy con nghĩa trung quân.
I.11. Bảo toàn thân, Đào Thế Sĩ cáo lãovề quê.
I.12. Lạc Sơn lãnh, Thế Sĩ tái phùngngười bạn trẻ.
I.13. Đem lòng xấu, Thiên Thành mưu toancướp nước.
I.14. Thử lòng nhau, Thiên Long , Thể Phụngtỏ lòng trung.

Cuối cùng thì hay bên hiểu nhau vàđồng lòng sẽ thực hiện lòng trung quân áiquốc của mình mặc dầu sẽ kinh qua bao nguyhiểm gian nan. Tuồng có thể chấm dứt ởđây với sự hàm ngụ hai người sẽthực hiện công việc trừ nguy diệt bạo trongtương lai, chuyện thành công hay thất bạiđược bỏ lửng lơ cho ngườiđọc/xem muốn hiểu thế nào thì hiểu.

Nhưng người xưa không bao giờkết thúc tác phẩm của mình một cách lơ lửngnhư vậy. Ông Lê Quang Chiểu đã mách rằng còn có cáchồi 2, 3. Chắc chắn là những nhân vật chínhdiện sẽ gặp rất nhiều khó khăn khiđối đầu với những nhân vật phảndiện. Tiếc quá ta không được đọc. Hivọng trong tương lai gần chúng ta sẽ đọcđược bản phiên âm tuồng Lý Thiên Long củaThư Viện Anh Quốc hay ít ra cũng đượcđọc tuồng Tứ Linh! Với tình hình vănhọc kì hoặc như hiện nay, thời gian chờđợi chắc chắn sẽ rất dài!

Tuồng nào cũng vậy tác giả sửdụng thật nhiều thành ngữ tục ngữ, các trạngtừ mô tả tâm tình một cách vũ lộng mà chúng ta ítthấy ở tác phẩm của nhà văn hiệnđại. Có thể tác giả tuồng gần vớiđám đông quần chúng hơn? Chúng tôi xin nhườngsự nhận xét chi tiết về mặt vănchương và sự hay dở về mặt cấutạo tuồng tích cho các độc giả.

Thiết nghĩ cũng nên ghi lại đâymột ít chi tiết về người sửa lạibổn cũ tuồng Lý Thiên Long này.

Ông Lê Quang Chiểu (1853- 1924) là học tròcủa Phan Văn Trị, là một người khítiết, sống thanh bạch, có làm nhiều bài thơvịnh nói chí khí mình, nỗi tiếng nhứt làmười bài họa lại thập thủ liênhườn của Tôn Thọ Tường (giống nhưtrường hợp của thầy ông là Phan VănTrị). Năm 1903 ông xuất bản quyển Quốc Âm Thi Hiệp Tuyểnlà một tuyển tập có giá trị lịch sử vìhầu hết các bài thơ trong đấy đềuđược trình làng lần đầu tiên. Theo ông PhanVăn Thiết, trong quyển NamThi Hiệp Tuyển, Sàigòn, 1948, Lê Quang Chiểu 'làmột văn sĩ có danh ở Nam Kỳ, quê quán ở PhongĐiền (Cần Thơ) ông là một ngườiđồng thời nhưng trẻ hơn các ông Tôn ThọTường, Phan Văn Trị và Nguyễn ĐìnhChiểu... Ông có làm nhiều thơ văn, phần nhiềulà thơ Nôm, rất được truyền tụng, ôngthường xướng họa với bà nữ vănsĩ Trần Ngọc Lầu...'

Một trong những bài thác chí mình, không sợphiền lòng người Pháp là bài Khóc Ông Phan Thanh Giản, vốn đượclưu truyền rộng rãi trong Nam:

Quan Phan tiết nghĩa sánh cao dày,
Thương bấy vì đâu khiến chẳng may.
Hết dạ thờ vua trời đất biết,
Nát lòng vì nước quỷ thần hay.
Tuyệt lương một tháng rau xanh mặt,
Bị quở ba phen lửa cháy mày.
Chỉn sợ sử thần biên chẳng hết,
Tấm lòng ấm ức phải thày lay.

Giống như công việc chúng tôi làm ởcác quyển sưu tầm tương tợ, trong quá trìnhhình thành, chúng tôi có hội ý và được sựhướng dẫn tận tình của Giáo Sư NguyễnKhắc Kham, nên xin nhân dịp này ghi lại đây lòngbiết ân của kẻ hậu học đối vớibậc Thày, Sẵn đây chúng tôi cũng thấy mìnhcần đưa ra cái thơ Giáo Sư Kham đã thảonhư tiêu chí để mở một tủ sách nhằmcung cấp các tài liệu khó tìm mà quyển Lý Thiên Longnầy là quyển sách tầu tiên trong tủ sách BảoTồn theo như dự định..

‘Lâu lắm rồi, chúng tôi muốn giớithiệu với độc giả những quyển sáchhiếm trên thị trường vì các bản in xưa theothời gian đã hết. In lại để tác phẩmđược tới tay nhiều người đọchơn, in lại còn là cách để các học giả códịp nhìn lại những tác phẩm vốn thiệt thòivì lâu nay không có mặt trên thị trường hay nhữngnhững thư viện rộng mở cho người dântham khảo. Tủ sách Bảo Tồn ở trong chiềuhướng đó, đem đến tận tayngười đọc những tác phẩm hiếm.’

‘Sự sưu tập cũng như in ấnđòi hỏi thời gian cho nên mặc dù dựđịnh đã lâu, đến hôm nay mới thựchiện được công trình nhỏ này. Chúng tôi không innhiều, mỗi quyển chừng một trăm ấnbản, cốt là để bảo tồn tác phẩm chongười sau có cơ sở thực hiện những côngtrình lớn hơn.’

‘Kinh nghiệm về những khó khăn khiđi tìm tài liệu bấy lâu nay khiến chúng tôi nghĩđến việc thực hiện tủ sách này. Mongđược đồng tình của các bạnđọc. Quý vị nào có những quyển sách xưa nghĩrằng đáng được phổ biến có thểliên lạc hay cung cấp bản sao cho chúng tôi đểtủ sách Bảo Tồn được ngày càng lớnmạnh. Chúng tôi vô cùng biết ơn nếu đượcủng hộ tinh thần cách này hay cách khác từ phíabạn đọc.’

    

NguyễnVăn Sâm (Tháng Ba, 1997)

[Viết thêmnhân ngày giỗ đầu của thầy] Chỉ tiếcrằng lực bất tòng tâm, chuyện sưu tầm sáchtưởng khó mà dễ, chuyện in sách tưởngdễ mà khó, vài quyển sách lạ đã sưu tầmđược, sẵn sàng để in, nhưng rồikhả năng thực tế không bao giờ cho phép, chođến khi thầy mất gần mười năm sauđó. Buồn thay thầy ơi!