Kim Vân Kiều Ca

Bản Kim Vân Kiều Ca nầy (Thư Viện Quốc Gia HN ký hiệu R560, trang 1-4) và bản Túy Kiều Phú (tài liệu chép tay NVS sưu tầm) cùng nhiều bài văn ngắn khác liên quan đến đề tài Thúy Kiều thể hiện ảnh hưởng sâu đậm của Đoạn Trường Tân Thanh (ĐTTT) tới dân chúng miền Nam cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Tôi gọi loại nầy là phó phẩm của Truyện Kiều. Kiều là tác phẩm có quá nhiều phó phẩm, Vịnh Kiều Tập Tự của Chu Mạnh Trinh, (chép chung trong sách Sãi Vãi, ký hiệu AB. 383) là một thí dụ nhỏ. Căn cứ trên số phó phẩm đó ta thấy rõ ràng giá trị của ĐTTT và thấy ngay ảnh hưởng vô vàn sâu đậm trong dân gian cũng như học giới của miến đất mới phía Nam. Về sau, nầy mặc dầu có những phó phẩm bằng quốc ngữ như thơ Hoạn Thư Bắt Thúy Kiều của Lê Hoằng Mưu hay Thúy Kiều Án (của ?) và những thơ vịnh Kiều khác nhưng ảnh hưởng không bằng hai bài văn Nôm nói trên.

Giải thích chuyện nầy tôi cho rằng những từ ngữ Nam Kỳ Lục Tỉnh đã gây cảm giác trong lòng người đọc như sự bàng hoàng xúc động của đứa con đi xa lâu ngày nay trở lại làng quê, bồi hồi xúc động trước bụi tre đầu ngõ có lúc mình đã sợ ma, con đường đê gập ghềnh vẫn như xưa thấp thoáng những ngôi mộ ông bà làng nước, con rạch nhỏ từng tắm sông quậy nước khi chưa biết mắc cở, cái giếng làng tụ hội khi mới lớn… Tất cả hình ảnh trên nhờ những từ ngữ đặc thù kia mà hoạt cảnh của quá khứ kéo trở về trong trí: nhà trò, một đò, mà tế Đạm Tiên, còn đương ngần ngại, trên quan dưới lại, dọc đàng, phối hợp cùng chàng, vơi tát, khát mặt thung huyên, phản trá, dắt díu nhau... không thể kể hết.

Bốc đại cầu âu một câu nào đó như:

Bạc tiền đâm lẽ phải có là bao!

hoặc:

Tóc da coi yểu điệu cũng nên dường.

hay:

Chàng có quyết cương thường đại đạo,
Trình song thân định liệu nhơn duyên.
Giao phím đàn với mảnh gương nguyền,
Bỗng nghe tiếng đỗ quyên gáy giục
.

Người đọc sẽ thấy những từ ngữ rặc ròng Nam kỳ hoặc ngay cả tiếng dùng chung cho cả nước đi nữa nhưng cấu trúc câu theo thế cách nào đó mà hương vị Miền Nam vẫn hiện diện, tuy thấp thoáng nhưng in vào trí não ta một cảm giác mông lung nhè nhẹ liên quan đến khung cảnh đồng quê mộc mạc. Tìm hiểu kỹ lưỡng cấu trúc đặc biệt đó thì nhiêu khê như phân tích một mùi hương. Khó dàn trời biển.

Quí cụ, thường là nhà Nho bất đạt ngày xưa, chép tay bản Nôm nào đó thường là chép từ bản trong trí nhớ mà xưa mình được học thuộc lòng, nên nhiều khi có những bất cập. Thí dụ của trường hợp Kim Vân Kiều Cadư câu 208, dư chữ [tiền] ở câu 206, người đời sau đọc có thể tự ý sửa hay cẩn thận hơn chỉ là ghi nhận.

Sau bài Kim Vân Kiều Ca nầy chúng tôi sẽ giới thiệu bài Túy Kiều Phú hay hơn, dài hơi hơn mà tôi ngờ là Kim Vân Kiều Ca xuất hiện trước, người đời sau nhân đó có hứng khởi viết Túy Kiều Phú.

Xin mời đọc bản phiên âm quốc ngữ …


(1a)Xem truyện cũ trào Minh Gia Tĩnh,01
Có hai người con gái họ Vương.
Thúy Vân kia mày mặt nở nang,
Chị Kiều nọ khôn ngoan sắc sảo.
Gẫm từ thuở mai hoa phát tảo, 05
Tóc da coi yểu điệu cũng nên dường.
Đã lãu thông Kinh, Sử văn chương,
Lại gồm biết cầm kỳ thi họa.
Thanh Minh tiết rủ nhau đi viếng mả,
Chật giữa đường xa mã nghinh ngang. 10
Xứ xứ đều quang rạng lửa hương.
Thấy một mộ bên đường không kẻ đắp.
Kiều trông thấy sa tâm tuất cập[1],
Hỏi Vương Quan cho tỏ sự duyên do.
Mồ Đạm Tiên xưa ấy nhà trò, 15
Hồng nhan cũng một đò trong cuộc thế.
Kiều nghe biết bỗng liền sa lệ,
Đốt tuần hương mà tế Đạm Tiên.
Chẳng ai ngờ đồng bịnh tương liên,
Khoảnh khắc đã đưa tin thi thập thủ. 20
Sổ đoạn trường căn do tự đủ,
Kiều ngâm rồi khủng cụ biết bao.
Buổi hoàng hôn trời đã xế chiều,
Vương Quan giục hai Kiều trở lại.
Trong việc trước duyên trời đưa lại, 25
(1b) Gốc phù dung gặp gã Trọng lang,
Tạ từ rồi khách khách lai hàng,
Nào ai biết lòng chàng ra có dục.
Thuê nhà chỗ đông lân trọ học,
Ngày ngày thường chúc mục đông song. 30
Việc chẳng qua sự bởi Thiên Công,
Lạc thoa ấy tơ hồng định trước.
Lấy của ấy làm tin cẩn ước,
Xui chàng Kim bắt được đem về.
Trước án tiền ý hỡi tê mê, 35
Nhác nghe tiếng bên kia xin lại.
Tay cầm thoa còn đương ngần ngại,
Dựa án thơ giấc hỡi mơ màng.
Lắng tai nghe vẳng vẳng tiếng nàng,
Xếp khúc họa cung đàn xang cống. 40
Hỏi hát quá xui nên lòng động,
Lúc mê man toan giở giọng lần khân.
Giữ tiết trinh vâng chịu ân cần,
Xin thương lấy chút thân bồ liễu.
Chàng có quyết cương thường đại đạo, 45
Trình song thân định liệu nhơn duyên.
Giao phím đàn với mảnh gương nguyền,
Bỗng nghe tiếng đỗ quyên gáy giục.
Cung đờn dạo còn đương dở khúc,
Thơ nhà chàng, hiếu phục nghiêm thân. 50
Kẻ ra về trong dạ tần ngần,
Người lên ngựa bâng khuâng lòng khoải khoắc.
Lúc tai họa dắt nhau vào lối chật,
Cả hai nhà cùng mắc nạn oan gia.
(2a) Thằng bán tơ vu cáo gian tà, 55

Cho đến nỗi ông già mắc nạn.
Đáo tụng đình cửa nhà muôn vạn,
Lúc sai nha vơ vét[2] cũng như không,
Chữ hiếu trung trông thấy đau lòng,
Hai tay trắng sao xong lẽ phải[3]. 60
Việc chẳng qua trên quan dưới lại,
Bạc tiền đâm[4], lẽ phải có là bao!
Đạo làm con để thế trông vào[5],
Cơ tạo hóa khiến sao vâng vậy.
Bán mình đã tờ giao phút lấy[6], 65
Đem đầu vào trát chú Đề Chung.
Tội oan gia rửa sạch như không,
Việc nhà lại thong dong như trước.
Ngoảnh ra thấy Giám sanh đàng trước,
Chường song thân sau trước cụ trần[7]. 70
Duyên chàng Kim giao lại em Vân,
Khách địa mặc mưa Tần gió Sở,
Ngoảnh ra thấy Giám sanh lên ngựa,
Đỗ xe loan đi trả nợ bồng tang,
Đến dọc đàng phối hợp cùng chàng, 75
Sáng mai thấy cửa hàng sai đón rước.
Thấy hai ả cài trâm giắt lược,
Đứng đôi bên hữu tước Bạch Mi Thần.
Thấy cơ đồ[8] trong dạ tần ngần,
Lại một mụ vắt chưn ngồi ghế chéo[9]. 80
Phận ti tiểu đã đành cam chịu,
Lại làm ra cách điệu xuân huyên[10].
(2b) Khi sa cơ mới phải tòng quyền,
Tiểu đao đấy nàng liền tự tiện.
Trong mê thấy Đạm Tiên ứng hiện, 85
Bảo[11] hồng nhan còn vướng nạn sông Tiền.
Hễ bao giờ chị xuống giang biên,
Mới sạch nợ trần duyên từ đó.
Tú bà mới nhỏ to khuyên nhủ,
Khóa buồng xuân cho bỏ lúc phong trần. 90
Khi cô mình ngâm bức thơ thần,
Chẳng may gặp bất nhân thằng họ Sở.
Thơ tích việt an ngày chạy ngựa,
Thượng sách đem làm nhỡ hồng nhan.
Vì Sở Khanh nên đóa hoa tàn, 95
Mà Mã Giám là gian rồi mới biết.
Gặp Thúc sanh cửa nhà lẫm liệt,
Đủ nghề chơi, nghe biết tiếng nàng.
Bốc lên làm ra mặt giàu sang,
Hỏi giá cũ bạc vàng đem chuộc lại. 100
Tú bà tính cũng đà có lãi,
Dọn hoàn nàng giao lại cho chàng.
Chẳng ai ngờ nhân quả dở dang,
Nghiêm phụ lại chẳng thương đi kiện cáo.
Nhờ Lịnh Doãn quảng khai đại đạo, 105
Xin Thúc ông kiện cáo ích gì.
Xử hòa cho bái tạ đi về,
Còn một nỗi chánh thê bất tháo[12],
Đêm ngày giục Thúc sanh qui cáo,
Phận tiểu tinh ngại có tương lai? 110
Chẳng ai ngờ nỗi ếch bưng tai,

(3a) Cho đến nỗi lâu đài tan tác,
Thây vô chủ đem vào thay khác,
Thuốc mê đâu bắt uống mơ màng.
Như đàn bà thế ấy mới gan, 115
Rồi mới biết nhân gian địa ngục.
Một năm nữa, lại về, chàng Thúc,
Chàng nói rằng hiếu phục vừa xong.
Hoạn Thư khen chí hiếu rất lòng,
Truyền lấy rượu luận công gia tưởng[13]. 120
Đuổi nàng xuống thị hầu dưới trướng,
Hoạn Thư ngồi tiệc thượng cười thầm.
Tính làm cho bõ lúc đau ngầm,
Chén rượu chuốc phải cầm uống gượng.
Giả say quá làm điều gục xuống, 125
Hoạn Thư liền thét mắng con hoa.
Diệu Thiền kia còn muốn chồng ta,
Khuyên chẳng cạn, khôn qua tiến trượng[14].
Thương mà sợ phải ngồi uống gượng,
Trông mặt chàng hình trạng ủ ê. 130
Hoạn Thư ngồi trướng rủ màn che,
Thấy hai mặt e dè khắc túc.
Giao quyền bính lại cho chàng Thúc,
Toan làm cho sỉ nhục cả hai người.
Có lẽ đâu dưới đất trên trời, 135
Thôi cũng nghĩ cho ra ngoài Quan Âm Các.
Cũng rắp chí ra tu hành lạc,
Chẳng ai ngờ chàng thoái thác liền ra,
Còn đương than thở gần xa,
(3b) Chợt[15] trông thấy giày bà bước lại. 140
Đêm nằm nghĩ biết bao sợ hãi,
Cửu lưu thần ắt hại lâm thân.
Sẵn mọi đồ chuông khánh kim ngân,
Thầm dắt để hộ thân chóng tựu.
Nửa đêm thấy chúng tăng an ngủ, 145
Cất mình đi tầm thú phương xa.
Đem đầu vào lạy Tam Hợp sư già,
Nộp chuông khánh để mà ký thác.
Chẳng may ra gặp con mụ Bạc,
Chánh nó là một tổ bợm già. 150
Bảo Sư rằng chuông khánh Hoạn gia,
Sư dung túng ắt là tai họa.
Ai ngờ nó dụng tâm phản trá,
Đem về nhà ép gả Bạc sanh.
Dắt díu nhau đem bán Lâm Thanh, 155
Hay đâu cũng lầu xanh một tổ.
May lại gặp anh hùng cứng cổ,
Nghiêng góc trời cờ mở trống giong.
Vả Từ công lẫm lẫm oai phong,
Sức thao lược xương đồng da sắt. 160
Nghe thấy tiếng Thúy Kiều tài sắc,
Thoắt nhìn qua nét mặt quá ưa.
Hỏi trước sau Kiều phải trình thưa,
Sai bộ tốt phất cờ đến rước.
May gặp hội duyên ưa cá nước, 165
Nợ hồng nhan từ trước sạch sanh.
Xuống khấu đầu nhờ cậy oai linh,
(4a) Giả ân oán bất bình phen lưu lạc.
Khi ân oán bể hồ vơi tát,
Phút động lòng khát mặt thung huyên[16], 170
Muốn sao cho trung hiếu vẹn tuyền,
Cho phỉ chí thiền quyên sở nguyện,
Xem chàng giở những đồ chinh chiến,
Như Hoàng Sào, Ô Viện có ai khen!
Đứng Thánh quân lẫm lẫm oai quyền, 175
Ai ai cũng đội trời trên cả.
Sao bằng chịu từ bi hỷ xả,
Hội hoàng triều chức cả có ai đương.
Tính thiệt hơn quyết chí hồi đường,
Cho đến nỗi chiến trường bỏ lại. 180
Hồ Tôn Hiến chướng vô sở ngại
Lập gian mưu sát hại Từ công,
Thâu linh tiền, một tiếng súng đồng,
Ai ai chẳng hãi hùng quan Đổng?
Mê binh hiển để nàng vọng hống, 185
Tiếng Hồ công nhứt thống mỗi danh.
Đến hạ công[17] tướng sĩ trong thành,
Giả say tỉnh ép tình mỹ nữ.
Rạng ngày mai tỉnh ra biết sợ,
Ép nàng vào làm vợ thổ quan. 190
Sẵn xe loan rước thẳng xuống thoàn,
Hỏi mới biết sông Tiền là đấy.
Hỏi Đạm Tiên có chờ ta đấy,
Hẹn cùng ta rước lấy ta về.
Nói dứt lời nàng quyết một bề, 195

(4b) Theo dòng nước trở về quê trước.
Như thế ấy mới gan thao lược[18],
Rửa sạch mùi ô trược[19] mới xong,
Dưới dòng sông ghi chữ tình thâm,
Ai ai nghĩ hương chìm đáy bể, BN: cũng 200
Thổ quan sợ biết sao mà kể.
May gặp người hiếu đễ tiên tri.
Sư rằng song chẳng hề chi,
Thuê thuyền trực dòng sông đến rước.
Thúy Kiều hỡi còn lòa bóng nước, 205
Vãi Giác Duyên bái tạ Phật đường.
Vợ chồng Vân với cả chàng Vương,
[Đem nhau đến sông tiền Đường nãi hối] bỏ, dư
Bên kia sông lập đàn tràng sám hối,
Bài vị đề hương khói ngạt ngào. 210
May gặp khi vãi Giác đi vào,
Nói một tiếng cả nhà mừng rỡ.
Ai ai cũng quá vui mất sợ,
Mừng cho nàng sạch nợ bồng tang.
Dắt díu nhau đến lạy Phật đường, 215
Tạ Giác Duyên, cố hương trở lại.
Như nàng đủ nhân trung hiếu ngãi,
Nỗi chàng Kim nghĩ lại tình xưa.
Chẳng quản chi hoa thải hương thừa,
Sum hợp lại một nhà vinh hiển.
Như thế ấy lấy trong cổ truyện, 221
Dẫu dở hay lấy đấy làm ghi.

Kiều lục chung (Hết)

_______________________

CHÚ THÍCH:

[1] Sa tâm tuất cập 沙心恤及: Đem lòng thương xót.

[2] Vơ vét 遊覺: tom góp cướp giật tới đồng tiền cuối cùng.Bản Nôm viết dơ giéc, giọng Nam Kỳ đặc.

[3] Không tiền thì cũng chẳng có lẽ phải.

[4] Diễn ý câu: Nén bạc đánh toạc tờ giấy!

[5] Làm con sao cho người đời (thế) không chê cười.

[6] Thân nàng Kiều lúc nầy như món hàng, khi bán rồi thì phải giao.

[7] Cụ trần 具陳: Giải thích, trình bày.

[8] Thấy cơ đồ: Thấy sự việc.

[9] Ghế chéo: Có thể hiểu là ghế xếp, từ ghế xếp thấy trong tự điển của HTC. Cũng có thể hiểu ngồi ghế chéo là ngồi chéo ghế, ngổi trên một phần nhỏ của ghế.

[10] Làm bộ mẹ.

[11] Trong truyện Kiều, Đạm Tiên báo mộng biểu rằng… Bản Nôm câu nầy thiếu chữ, người đọc trước thêm chữ người 𠊚 có lẽ lầm với chữ bảo 保.

[12] Chánh thê bất tháo 正妻不造: Chưa thông đạt/tri cho vợ lớn.

[13] Gia tưởng 嘉 奬: Khen thưởng.

[14] Không qua tiến trượng 坤戈進杖: Không khỏi bị đòn.

[15] Trong câu nầy thì dùng chợt đứng trước động từ. Khi nói ‘chợt mưa chợt nắng bởi vì đâu…’ cũng là dùng nắng mưa như động từ’.

[16] Khát mặt thung huyên 渴𩈘椿楦: Nhớ đến cha mẹ.

[17] Đến hạ công 旦賀功: Tới lúc ban thường. Chữ đến 旦 đã viết lầm thành vả 且.

[18] Chữ thao lược 韜畧 đây như là không được ổn

[19] BN viết ô thước 烏鵲. Nghĩ là ô trược. Xin chất chính!