Lôi Phong Tháp hồi 8.1
Nguyễn Văn Sâm

Lôi Phong Tháp Hồi 8
(27 trang viết tay)

8.1 Từ Hàn tương tư Bạch Trân Nương vợ biết được nguyên nhân.

Hồi nầy gồm có nhiều phần, hôm nay giới thiệu phần thứ nhứt là hồi ông Viên Ngoại Từ Hàn tương tư Bạch Trân Nương là vợ của Hứa Hớn Văn, bạn mình.

Trích trong tuồng Nôm Lôi Phong Tháp, tác phẩm tôi nghĩ là cuối thế kỷ 19. Đây là tuồng phỏng theo truyện Tàu Thanh Xà Bạch Xà. Bạch Trân Nương ở đây là Bạch Xà, đương hiện hình thành người đẹp và sống chung với chồng là Hứa Hớn Văn.

Phiên âm từ tư liệu hai hồi 8 và 9 do TS Tô Lan sưu tập được ở Huế (?), cách nay hơn 1 thập niên. Chúng tôi trước đó đã sưu tầm được 7 hồi đầu, sẽ cho lên fb khi có dịp. (NVS)

Từ Hàn: (T1)
Văn chương Hoa[1] quốc, võ lược Bảo bang,
Trên cửu trùng gối Bính đặt an, Ngoài tứ cảnh giậu Thân chống khỏe[2].
Tôi niên thiếu hỡi còn tác trẻ, Nhà phú gia danh gọi Từ Hàn.
Từ điếm trung[3] xem thấy hai nàng, Về gia nội khôn nguôi một khắc[4].

Lại Tán:
Thiên nhược bất ái sắc, Tất tinh tú vô Ngưu Nữ.
Địa nhược bất ái sắc, Tất thảo một vô liên chi[5].
Thiên địa đô ái sắc, Nhân sanh tương hà vi[6]?
Nếu đà ra giống tình si, ai khỏi thiếu vòng sắc lụy.
Từ ngồi cùng Hứa thị[7], bỗng liếc thấy Trân Nương.
Má đào mày liễu xuê xoang 吹咣, Da tuyết tóc mây nha nhãn 牙眼.
Sóng sắc một phen đưa lượn, (t2) Thuyền tình theo gió mà xiêu!
Gẫm vốn không trả lý gieo đào, Sao luống mống tâm viên ý mã[8]!
Lai láng sầu tuôn muôn ngã, Ngâm nga ngụ ý hai vần.

Ngâm:
Ngọc mạo hoa nhan bất tận Xuân, Xuân tâm sầu sát ái Xuân nhân.
Vô do đắc toại Xuân tâm nguyện, Không ức phương tư mộng xâm tần.

Lại nói:
Ôm lòng riêng trộm nhớ thầm thương, Nghĩ người ngọc rày ao mai ước.
Ngày dã dượi 者 𤵺 ngồi cùng sáu khắc, Đêm bâng khuâng thức trọn năm canh.
Tự nhiên chước nhiệt hòa mình[9], Bỗng chốc hôn mê ngũ tạng.

(Từ Hàn bịnh nằm tại thư phòng, than dài thở vắn….)

Trần Thị:
Nhơn sao những than dài thở vắn, việc chi nên ủ mặt châu mày?
Nói cho thiếp được hay, Kẻo mà lòng ái ngại.

Lại nói:
Sao hỏi hoài không nói, Cứ nằm vậy làm thinh.
Tay lua khắp hòa mình. Da nóng ấm như lửa.
Bịnh ta xem rất dữ, chứng thấy hóa nao[10] [口芾]

(Kêu gia nhân….)

Khá rước thầy rước bóng[11] cho mau. Tua chạy thuốc chạy bùa đặng kíp.

Pháp Môn Sư:
Trừ tà làm trước. Phục dược ấy sau[12].
Cúng âm binh áo đủ năm màu[13]. Lễ quan tướng tiền đầy một chục.
Kim ngân dụng túc. Cân ấn phỉ phù.
Đặng cho thầy thiết tướng thỉnh bùa, Ngõ làm việc sai đồng triệu vía.

Nữ Vu:
Thầy có phép trừ tà ếm quỷ. Cốt cũng tài xuống xác lên đồng.
Sau bịnh lành hậu bạc mặc lòng, Giờ thúng gạo quan tiền mừng mặt[14].

Y Sanh:
Bóng dại hành con xác, Thầy dốt thụt cánh vai.
Khéo rủ đoàn nửa quỷ nửa ma, Làm dối thế lấy tiền lấy gạo.
Chuyên chú điều không hiệu, Cầu mời cũng chẳng linh.
Tục ngữ nói đành rành, Đói ăn rau đau uống thuốc[15].

Trần Thị:
Tướng hoảng hốt chạy cho hết sức, (T4) Bịnh im lìm[16] chút chẳng sai phân.
Trẻ khá mau giữ gạo cất tiền. Đuổi ra khỏi kẻo ngầy tai ngầy óc.

Lại nói:
Ngồi lại dậy lòng càng trằn trọc. Ra lại vào dạ luống phập phùa[17].
Hết lòng chạy thuốc chạy bùa, Điều chẳng thấy hay thấy hiệu.

Lai Hưng:
Gẫm thế sự thiệt nên quá néo[18], Nghĩ nhơn tình ấy lại thêm rầu.
Sẵn trong nhà Bồ Tát chẳng cầu, Đợi đặng Phật Tây Thiên mới lạy[19]!

Trần Thị:
Tai nghe được Lai Hưng bàn nói, Dạ chửa tường nguyên ủy dường nao.
Sao rằng Bồ Tát sẵn chẳng cầu, Sao rằng Phật Tây Thiên mà lạy?

Lai Hưng:
Lạ chi mà phải hỏi, Xem lấy đó thời hay!
Mình hại mình há dễ bởi ai, Bịnh nhiễm bịnh chẳng qua tại đó!

Trần Thị:
Sau trước ngươi đà tỏ rõ, Bấy lâu sao nỡ làm thinh?
Ấy sao rằng mình lại (t5) hại mình, Tua khá nói nghĩa cho tường nghĩa.

Lại nói:
Mở miệng sao còn ngại, Hãy nói thử mần răng?
Cớ sao còn lại ngập ngừng, Mà chẳng nói cho tỏ rõ.

Lai Hưng:
Chẳng nói ra cũng khổ, Khổ nên phải nói ra.
Lạ chi người mà có chứng ma[20], Hễ thấy gái như mèo thấy mỡ[21].
Vì bữa trước tới nhà họ Hứa, Nên hôm nay tôi biết ý thầy.

Bắc xướng:
Chỉ nhân dược điếm luận giao thời, Kiến Hứa Tiên thê hữu thục tư[22],
Nhãn giác mi tiêm truyền ý chữ, qui lai như túy hựu như si.

Viện Quân:
Vợ Hớn Văn là Tiên Phật đi chi[23] nên phu tế say mê dường ấy.

Lai Hưng:
Nói ra thời cũng ngại, tin đi, lại hỏi hoài!

Bắc xướng:
Lưỡng đạo nga my, uyển nhược Xuân sơn hoành viễn mặc.
Nhứt song phụng nhãn hỗn như thu thủy dạng kim ba[24] 漾 金波 (t6)

Viện Quân:
Cho ba vuông bảy tròn, thời như ta nầy, chớ vòng vàng sơn son chi vào đó.

Lai Hưng:
Người nầy ít có, Thiên hạ khó phen.

Bắc xướng:
Phấn diện hồng trang, nghi thị Hằng Nga ly nguyệt điện.
Huỳnh tư thục chất y nhiên Tiên nữ hạ Dao đài[25].

Viện Quân:
Ma vật chết thằng nầy, Quái gỡ cho chú nghĩ!
Tưởng quân tử nội thương huyết khí, Hay anh ta ngoại cảm tương tư.
Vậy mà lo mà sợ ngất ngư, Những chạy thuốc chạy bùa tẳng lẳng.
Thấy chướng mà căm lòng giận, Giận no[26] nghĩ lại nực cười.
Ai từng xem thấy vợ người, Mà lại phải chưng lòng mặt.
Muốn làm lẩy liều cho bỏ ghét, Song suy tình tưởng lại chạnh thương,
Phải dời chơn bước tới thư đường[27], Ngõ liệu chước cứu yên căn bịnh.

__________________

[1] Chữ hoa thiếu nét sổ, trường hợp nầy có người cho là kỵ húy một người vợ vua đầu triều Nguyễn. Vậy bản tuồng nầy được soạn/chép đầu đời Nguyễn.

[2] Trong triều đình thì bình yên, ngoài thì giữ vững biên cương. Thời thái bình

[3] Điếm trung 店中: Trong tiệm, đây nói tiệm thuốc của Hứa Hớn Văn.

[4] Luôn luôn nhớ nhung mơ tưởng.

[5] Liên chi 蓮枝: cành hoa sen. Tương truyền, tim sen là liên tử, uống trà liên tử thì sanh nhiều con. Cũng có nghĩa là cây liền cành. Một hình ảnh yêu đương quấn quít.

[6] Trời Đất đều ái sắc, con người thì làm sao đây?

[7] Hứa thị: Người họ Hứa, tức Hứa Hớn Văn, chồng của Trân Nương.

[8] Đem lòng có ý xấu nhảy nhót lung tung như vượn nhảy ngựa phi. Mống: Đem lòng mong muốn làm điều gì đó không tốt.

[9] Trong mình nóng quá như lửa cháy.

[10] Phiên giả đọc không nổi chữ nầy!

[11] Xưa người ta trị bịnh có nhờ bóng, nhờ thầy pháp, thầy bùa ngoài thấy thuốc. Đoạn nầy cho thấy các thầy khác phe phái trên nghinh nhau.

[12] Mấy thầy cũng giành nhau chí chóe.

[13] Bản Nôm (BN) viết bằng chữ sắc 色, nghĩ là ở đây phải đọc nghĩa là màu. Ngũ sắc là năm màu tương truyền trừ tà rất linh.

[14] Cốt nói không lấy tiền trước nhưng đòi thúng gạo quan tiền liền ngay. Ôi miệng lưỡi người ta!

[15] Câu có ý dạy đời, trừ bỏ thói mê tật xấu.

[16] Kiều có câu: Êm trướng rủ màn che, tường đông ong bướm đi về mặc ai, Nhiều bản phiên âm là êm đềm, tôi nghĩ là êm niềm hay im lìm... Có sự biến chuyển /n/ >/l/ rất lấy làm lạ trong cấu tạo chữ Nôm của trường hợp nầy...

[17] Tự điển Huỳnh Tịnh Của (HTC) không có từ phập khùa, chỉ có từ phập phều, nghỉ là một biến âm do địa phương.

[18] Néo: Buộc nhiều mối, rắc rối, đa đoan. HTC, Néo (n.): Dùng dây cột choàng rồi lại lấy cây mà bắt mà vặn cho riết lại, như néo quan cửu.

[19] Quá hay! Có thể áp dụng cho vợ, cho mẹ...

[20] Có chứng ma: Mấy chữ nầy rất hay. Chứng ma làm biết bao nhiêu đàn ông phải lụy!

[21] Thành ngữ dùng đúng chỗ nên trở nên tuyệt vời, khi diễn chắc được nhiều ủng hộ!

[22] Thục tư: Dáng vẻ thanh tú, đẹp đẽ.

[23] Chữ đi chi ở câu hỏi thường thấy trong văn quốc ngữ của sách đạo, có nghĩa là mới thấy trong tuồng nầy hai lần!

[24] Dạng kim ba: Nước sóng sánh như sóng vàng. Đẹp lắm.

[25] Nàng ấy đẹp như Hằng Nga, khác nào Tiên nữ.

[26] Giận no 𢠣𩛂: Giận đầy lòng, giận nhiều. Từ xưa no có nghĩa là nhiều nay còn trong nghĩa (ăn) no.

[27] BN thư phòng, phiên giả thay bằng thư đường cho vần.