U Tình Lục, thí nghiệm về đất trời phương Nam

U Tình Lục,

thí nghiệmvề đất trời phương Nam

 

Nguyễn Văn Sâm

 

 

1.

     Đọc vài ba câu ca dao của miền Namta sẽ thích thú ngay với những hình ảnh đuợc mô tả, cách nói, thái độ của nhânvật, ta cảm thấy gần gũi với họ biết bao nhiêu.

     Chẳng hạn lời tráchcứ của người trai:

Bậu nóivới qua bậu không bẻ mận hái đào.

Mận đâubậu bọc mà đào nào bậu cầm tay.

     Lời trách nhẹnhàng, cái lỗi cũng không nặng lắm. Có thể là cái cớ để trách thôi, dấu chekhông nhắc tới lỗi tày trời mà bậu đã làm. Mà cần gì nhắc, người con gái sẽhiểu thôi.

     Chẳng hạn như lờitrách của người đàn bà:

            Ngày nào anh bủng anh beo,

            Tay bưng chén thuốc lại đèo miếng chanh,

            Bây giờ anh mạnh anh lành,

            Anhđi theo con nhỏ đó anh đành phụ tôi,

     Trách phiền không gì bằng nhắc cônglao xưa, anh ngon lành bây giờ là do tình tôi lo lắng cho anh ngày trước. Anhphụ tình còn có nghĩa là anh phụ ơn. Lời trách cũng nhẹ nhàng thôi. Và tôi dám chắc người bội bạc sẽ thấmmà không đi theo con nhỏ đó nữa.

     Trong thơ Sáu Trọng, con Hai Đẩu thấy thằngTrọng bảnh tỏn thì thích lắm bèn hỏi thẳng:

Đẩurằng anh có vợ chưa,

Nếuchưa có vợ em thì chỉ cho.

Trọngrằng buôn bán không lo,

Nóichuyện đưa đò chè cháo lạnh tanh.

Đẩurằng lòng khiến thương anh,

Cháuchè nguội lạnh cũng đành dạ tôi…

     Hai đứa nói đưa đòqua lại vậy mà nên duyên vợ chồng. Tuy rằng về sau mối duyên tình nầy không bềndo Trọng thường vắng nhà đi làm bồi trên tàu viễn liên, nhưng trong hiện tạikhông có lời đối đáp nào giản dị mà mang tính cách địa phương bằng. Em chỉ cho.Em đây chớ ai. Thằng Sáu Trọng biết bắt thóp con Hai Đẩu nên xì, mầy không lobuôn bán, nói chuyện bao đồng. Hai Đẩu biết Trọng đã hiểu ý mình nên bồi thêm:Ờ, thì tui thương người ta nên cháo chè nguội lạnh tui cũng không màng…

     Những thí dụ tươngtợ ta có thể trích cả ngàn, không phải một vài trang mà là cả chục cuốn sách. Hầuhết đều toát ra tính địa phương trong ngôn từ thường ngày của con người bìnhthường trong xã hội và thái độ sống thẳng thắng, nhẹ nhàng trong lời trách móc,không có những lời cay đắng khắt khe.

     Tôi nhập đề dài dònglà có lý do, cái lý do đất trời phươngNam ẩn chứa trong các tác phẩm của vùng nầy mà không phải lúc nào ta cũng thấyđược.

     Năm 1960, khi họcnăm Dự Bị trường Đại Học Văn Khoa Sàigòn, tôi có thói quen vô Thư Viện QuốcGia, ở đường Gia Long- đối diện với bộ Kinh Tế thời đó- để đọc sách. Thường thìđọc bất cứ quyển nào trong tầm tay. Mượn theo phiếu tự điền sách mình thích haylấy may rủi những tạp chí dầy cộm đóng bìa cứng có từ thời Tây thực dân mới đếnxứ Nam Kỳ, để trên những kệ dựa tường, cao ngất tới trần nhà. Trong sự đọc langmang đó tôi gặp quyển U Tình Lục của Hồ Văn Trung, cái tênthiệt của nhà văn tiên phong Miền Nam có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng: Hồ BiểuChánh.

     Đọc đi đọc lạinhiều lần tôi thấy ngôn từ tác giả sử dụng và con người được mô tả sao mà giốngvới ca dao hay những tác phẩm bình dân đã đi vào lòng người Nam Kỳ Lục Tỉnh làmvậy! Mà sao U tình Lục không có ai nói tới kìa? Nó chìm khuất trong đống truyệndài văn xuôi đồ sộ của tác giả ngay chính ông cũng chẳng có thời giờ ngó ngàngtới để in lại lần thứ hai.

     Và tôi có ý tưởngso sánh quyển tiểu thuyết bằng thơ nầy với các truyện thơ khuyết danh viết bằngchữ Nôm xuất hiện chỉ trước nó chừng 5, 7 chục năm như Nhị Độ Mai, Phan Trần,Lục Vân Tiên, hay thậm chí sau nó  chừng  2, 3 chục năm như nhiều tác phẩm ít danh tiếnghơn mà ồ ạt xuất hiện hơn cả trăm là những truyện thơ bình dân của ba nhà xuấtbản Phạm Văn Thình, Phạm Đình KhươngThuận Hòa đều đóng đô lâu dài ở Chợ-Lớn tròm trèm nửa thế kỷ.

     Lúc đó tôi muốnkhảo sát tác phẩm ít người nói đến nầy để giới thiệu đến nhiều người hơn.

     Vậy mà cuộc đời đưađẩy, ước muốn nhỏ nhoi nầy cả năm chục năm sau cũng chưa có điều kiện thựchiện. May quá, gần đây hình như có phong trào giới thiệu lại các tác phẩm củaHồ Biểu Chánh. Ở Việt Nam, hết nhà xuất bản Cà Mau, nếu tôi nhớ không lầm, inlại trên giấy đen, trình bày cẩu thả, đánh máy quọt quẹt, biên tập lung tung vôtrách nhiệm, tới nhà xuất bản Trẻ in lại cẩn thận đẹp đẽ, với những mẫu bìatrình bày bắt mắt hầu hết tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, kể cả những quyển thiệtlà khó kiếm dầu đối với người chơi sách… Trên mạng còn có nhiều trang web về HồBiểu Chánh và cả những công trình nghiên cứu tương đối công phu, kể cả một tựvị những chữ mà ông thường dùng, hơi là lạ đối với người thời nay, càng lạ lùngđối với độc giả vùng Bắc, Trung. Đó là chưa kể mấy lố video và phim truyện.

     Nhưng vẫn chưa cóbài viết nào về quyển tiểu thuyết bằng thơ U Tình Lục. Cũng chưa có ai để ý chúgiải những từ ngữ Hán Việt và những danh từ rặt ròng Nam Kỳ mà Hồ Biểu Chánh sửdụng rất nhiều trong tác phẩm đầu tay của mình do ảnh hưởng nặng nề cựu học vớinhững kiến thức kinh điển của một thứ văn chương phong phú điển tích và chữnghĩa cô đọng, lời ít ý nhiều, chút nào đó hơi xa rời quần chúng bình dân íthọc.

     Thôi thì món nợ tựmình muốn chuốc thời trai trẻ, mang nặng bấy lâu nếu có thể trả được cũng nêntrả. Năm ngoái, 2012, từ một thôi thúc vô hình bên trong lòng mình, tôi nghĩđến việc ra công chú giải nó, bèn để sang bên những quyển sách khác đương viếtdang dở, đương phiên âm ba mớ…. Nhưng bê nguyên con U Tình Lục in lại như nóxuất hiện 100 năm trước thì người đọc sẽ rất khó hiểu hay hiểu lầm vì nguyênbản có hai vấn đề chánh làm trở ngại  sự  thưởng ngoạn:

(1) Có quá nhiều chữ được viết theo giọng đọc Nam Kỳ thời đó,hiểu theo ngày nay thì là sai chánh tả và sai cả âm Hán Việt chuẩn. Trong trườnghợp dầu chữ được viết đúng nhưng lắm khi người đọc sẽ không hiểu tác giả thiệtsự muốn viết chữ gì, hay dùng theo nghĩa nào trong số rất nhiều nghĩa của mộttừ Hán Việt. Do vậy giửa độc giả và tác giả có sự phân cách vô tình không cần thiếtvì hiểu sai hay không thấu ý tác giả.

(2) Tác giả viết theo lối văn vần, loại bác học  nên phải đi theo sự đòi hỏi của vần điệu,điển tích cũng như thành ngữ xưa mà ngày nay không phải ai cũng có điều kiện đểbiết, nhứt là sự giáo dục quốc văn sau đại nạn 1975 thiên về việc đề cao nhữngtác phẩm tuyên truyền, thù hận chỉ có giá trị thực dụng nhứt thời cho giới cầmquyền hiện tại mà không chú ý đến văn phong, câu cú, nghĩa lý của tác phẩm vốnlà những điều cần thiết của văn học có giá trị lâu dài cho cá nhân người học đểlàm hành trang vào đời hay cho việc phát huy nền văn hóa thiệt sự của dân tộc.

    Tôi thấy mình nên chú giải khi nghĩ đếnhai điều đó.  Một sự giới thiệu về tácphẩm, giải thích tại sao  tác giả bắt đầuđời viết văn của mình bằng truyện thơrồi bỏ loại nầy đi vào văn xuôi, tạo nên một gia tài đồ sộ truyện dài… cũng cầnnên có.

 

2.

     U Tình Lục 幽情錄, kể lại mối tình buồn, mối tình không giải tỏa được. Thời đầu thế kỷ20, tròn 100 năm trước, cái tựa nầy chẳng tạo nên vấn đề gì đối với người đọcthời nó xuất hiện, chẳng qua cũng giống như những cái tựa Đoạn Trường Tân Thanh, Bích Câu Kỳ Ngộ, Nhị Độ Mai, Tự Tình Khúc, ChinhPhụ Ngâm, Giai Nhân Kỳ Ngộ...  màthôi. Người đọc không ai thắc mắc. Nếu có thấy khó hiểu chút chút thì sẽ bỏqua, sau nầy hoặc sẽ không hiểu luôn, hoặc bỗng nhiên đến ngày nào đó duyên mayngộ ra nhờ đọc sách tình cờ hay gặp được người giải thích. Ngày nay nói U Tình Lục thì người đọc phần nhiều ngácngơ với một cảm thức xa lạ, dễ dàng không thèm chú ý đến tác phẩm. Đó là sự thiệtthòi vô lý của tác phẩm, bị độc giả ghẻ lạnh vì chính cái tên. Chúng tôi theocon đường đã vạch cho riêng mình từ lâu, đặt thêm tên mới kèm theo tên cũ củatác phẩm xưa, gắn thêm cho U Tình Lụcdanh xưng phụ KểChuyện Tình Buồn .

     Cái tên Hồ Văn Trung cũng vậy, đó là tênthiệt của nhà văn, chỉ là bút danh ban đầukhi ông mới vào đường văn nghệ và ông đã đổi lại sau đó[1],không phải là bút danh mà tác giả dùng cho cuộc đời văn nghệ của mình. Tại saota không đổi cái bút danh chỉ dùng một hai lần nầy cho tác phẩm văn nghệ để nhậpvới bút danh đã dùng nhiều lần của tác giả là Hồ Biểu Chánh?

     Do đó chúng tôi xin vô phép với tác giả đểgọi lại U Tình Lục của Hồ Văn TrungKể Chuyện Tình Buồn của Hồ BiểuChánh cho có nhiều người biết hơn, nhiều người để ý hơn và ai cũng có thể xếpquyển nầy vào trong nhóm tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. Khi đã biết Kể Chuyện Tình Buồn của Hồ Biểu Chánhthì đương nhiên họ biết đó là U Tình Lụccủa Hồ Văn Trung.

     Nếu hiểu một cách rộng rãi thì tất cả cáctruyện thơ Việt Nam đều là tình buồn,và tác giả viết lại câu chuyện thì cũng chỉ làmngười kể chuyện tình buồn. Đoạn Trường Tân Thanh không những làchuyện tình buồn mà còn đứt ruột nữa, Nhị Độ Mai, Phan Trần, Hoa Tiên, SongTinh Bất Dạ, Lưu Nữ Tướng… là lớp cao đến Phạm Công Cúc Hoa, Chàng Nhái KiểngTiên, Tống Trân Cúc Hoa, Nàng Út, Tam Nương, Mụ Đội… lớp dưới cũng vậy. Khôngcó đôi lứa thiếu niên gặp nhau rồi yêu nhau, hưởng cuộc tình đẹp đẽ, cưới nhau,sanh con đẻ cái, sống bên nhau tới răng long đầu bạc. Rồi chết. Người viết quanniệm rằng chuyện như vậy thì có gì phải kể. Và tác giả làm phù phép để họ gặpnhững chuyện buồn.  Ngay cả truyện Nam Kinh Bắc Kinh của đôi lứa hoàng tử,công chúa đã hứa hôn nhau trên trời mà còn là chuyện tình buồn nữa là…. Cáctruyện của người học trò nghèo, cô gái nhà dân dã chắc chắn là chuyện tình buồn.Kết cuộc tốt đẹp chẳng qua là sự lồng thêm miễn cưỡng của tác giả, viết thêm đểchìu lòng người đọc muốn thấy cái hậu, muốn tự an ủi mình rồi ra chính mìnhcũng như nhơn vật trong sách sẽ được thoát kiếp nghèo khổ…mà thôi. Và tác phẩmcũng chấm dứt ở đó.  Độ dầy của phần mô tảtình buồn chiếm gần hết độ dài của quyển sách, chỉ chừa cho tình vui nhiều nhứtlà một trang chót mà thôi, truyện nào cũng vậy.

     Kể Chuyện Tình Buồn trước hết là ý hướng viết văn rănđời của tác giả.

     Cũng như hầu hết  các cây viết trước và sau Hồ Biểu Chánh mấychục năm, có thể kể là năm 1954, người viết khi kết thúc truyện thường đưa rahai điều:

Ý hướng văn dĩ tải đạo của mình.

Lời chào khiêm cung trước khi từ giã người đọc sách.

     Xưa Nguyễn Du nói mình góp nhặt những lờiquê, chỉ mong giúp người đọc mua vui lúc đêm về khó ngủ khi diễn tả chữtâm kia mới bằng ba chữ tài, trình bày cái thuyết hồng nhan đa truân, tài mệnhtương đố… thì gần trămnăm sau Hồ Biểu Chánh nói gầnnhư tương tợ:

Trai anh hùng, gái thuyềnquyên,

Đất trời dành để lươngduyên lâu dài.

               Ngàn thu sum hiệp trước mai,

Thơm tho rừng quế, dặc dàidây dưa.

Ơn trời nhuần gội móc mưa,

Phong lưu tót chúng, giatư hơn người.

Quê mùa lượm lặt ít lời,

Canh khuya giải muộn giúpngười đồng văn.

     Ông nói gái trai đàng hoàng, chính chuyênthì kết hợp lâu dài và con cháu về sau sẽ nên cơ nghiệp… Ông diễn tả cáiđạo lý mà bao nhiêu nhà tư tưởng, nhà văn thời đó chủ trương. Quá nhiều, khôngthể kể hết. Chúng tôi xin trích hai tác giả ít người biết để làm tư liệu màthôi. Chẳng hạn như khi giới thiệu quyểnTamYên Di Hận của nhà văn Nam Kỳ Nguyễn Văn Vinh (Bến Tre)[2],nhà giáo Nguyễn Bửu Tài có nói (1929), mà tôi thấy chẳng những đúng với ý hướngviết của tác giả U Tình Lục mà cònđúng với hầu hết tác giả thời đó: ‘Thếthì viết tiểu thuyết chẳng nên vì tình dục, tư lợi, mà phải vì nhân nghĩa đạo đức,Truyện Tam Yên Di Hận chép ra, là nhân vì thuật giả thấy: tình đờihay xem hơi ấm lạnh, mặt người luống theo vọi thấp cao làm cho nhân loại dườngnhư mất hết lương tâm, xã hội tương tợ không còn đạo đức. Truyện Tam Yên Di Hận là một truyện nên cho trẻ em xem, đặng dữ (giữ) răn trong gương trước,mà lánh dè cái thân sau.’

     Một tác giả khuyết danh viết quyển Sự Tích Thánh Đô Minh Gô, sách bằng chữNôm, tôi nghĩ là viết chỉ vài ba chục năm trước quyển U Tình Lục của Hồ BiểuChánh, cũng không khác gì:

Cậy người quyền phép lạ dường,

Trợ cho hồn xác mọi đường lành yên.

Mấy lời quê kệt ghi biên,

Hễ ai xem sách thời xin nhớ cầu[3].

     Chúng ta có thể dẫn thêm nhiều nữa, trong hầuhết các truyện Nôm hay quốc ngữ nhưng thiết nghĩ không cần thiết.

 

3.

     Chú giải tác phẩm cũngnhư phiên âm chữ Nôm ra quốc ngữ vốn là hai công việc chi ly, bạc bẽo, mất thờigiờ nhưng hấp dẫn vì đó là cơ hội tốtđể thưởng thức một tác phẩm, học hỏi những điều chưa biết, chưa có dịp suy nghĩvề tiếng Việt. Thế nhưng chắc chắn là có những chi tiết mà mình chưa biết, vàchưa truy cứu được.  Học giả MauriceDurand, chuyên viên về chữ Việt, chữ Nôm mà trong các công trình dang dở củaông vẫn còn để lại lỏn chỏn những chữ không đọc được vì chưa quyết đoán donhiều yếu tố.

Chẳng hạn như trong BướmHoa Tân Truyện câu:

Códuyên như quả đồi mồi,

Khôngduyên như cánh hoa rơi giữa đường.

     Ông không đọc đượcchữ đồi mồi vì không hiểu nghĩa tiếngquả là cái khay, quả đồi mồi là khay chạn, cẩn sa cừ hay vỏ đồi mồi.

     Một trường hợpkhác, như câu:

Đã toandụng chước Lưu hầu,

Song lethước vắn bể sâu khôn dò. (c.275-276)

     Ông không đọc đượchai chữ thước vắn vì bản Nôm viết đơnchữ dược (Nôm đọc là thước) thành chữ quả 菓,chữ vắn phần chữ vấn lại viết quá sai.

     Những chuyện nhưvậy trong phần chú thích của Kể ChuyệnTình Buồn chắc chắn sẽ có, và có thể có nhiều. Chuyện cũng thường thôi, nhưcơm thỉnh thoảng có hạt sạn, như một giọng ca réo rắc người thưởng thức bàng hoànghụt hẩn khi phát hiện một tiếng bị phát âm không đúng âm giai…

    Thôi thì hoàn mỹ tấtnhiên là quý, bất toàn một chút cũng chẳng sao, người sau có lý do thúc đẩy để bắttay làm lại công việc của người đi trước, có dịp để bắt giò người đi trước, bắtgiò không vì ghét, vì phách lối, tự cao tự đại, mà để cùng nhau hiểu hơn nhữngngõ ngách của lâu đài văn hóa kỳ bí của dân tộc...

     Chú giải và in lạiquyển U Tình Lục chúng tôi theonhững nguyên tắc minh định là chỉ sửa chánh tả, không sửa những âm khác biệt với âm chúng ta dùng ngàynay vì những chũ cũ là cứ liệu quí giá để biết âm Nam của một thế kỷ trước. Rấtcẩn thận khi quyết định sửa một chữ và khi có trường hợp ngờ thì ghi chú liền ởphần chú giải để người sau có dịp kiểm chứng và suy nghĩ lại sự đoán định củangười đi trước, tuyệt đối không cho những gì mình nói là chơn lý và giấu đi hayphát lờ những điều mình nghi ngờ.

 

4.

     Cốt truyện của Kể Chuyện Tình Buồn có cái đặc sắc làNam Kỳ Lục Tỉnh trong nhân vật, trong thời đại và trong tình tiết. Ở đây khôngcó tuyết rơi, không có ngô đồng, không có mùa thu lá vàng rơi, ở đây trái lạicó Sàigòn, có bến Ngưu Giang, có vàm tuần, có trường học ở Mỹ tho, có thầythông, thiếm thông, có xe cộ chạy như mắc cưởi, có thơ ký nhà băng… Điều quantrọng nhứt là văn chương thuần Việt, đọc lên là thấy những chữ thuần Việt mà ngườita thuở đó xài trong cuộc sống bình nhựt. Một gia tài ngôn ngữ hi hữu, đáng giákhông dễ kiếm đâu được trong số quá nhiều truyện thơ - và kể cả tuồng hát bội -chịu ảnh hưởng của Tàu, kể cả Đoạn Trường Tân Thanh.

     Nhân vật cũng làcon người Việt, bình dân, không phải anh hùng hảo hớn, càng không phải là hoàngtử, công chúa sống trong cung điện với quốc vương, hoàng hậu, thái sư, thừa tướng,những tướng tá văn võ… với những trận đánh nhau long đầu lở trán, máu chảythành sông liên quan đến chuyện giành giật một vương quyền, hay nói khác hơn làtranh nhau một quyền lợi được che đậy bằng những danh từ trung quân, gian nịnh,chính thống, phản nghịch…. Con người ở đây di chuyển, hoạt động trên quê hươngmình, gần thì từ Mỹ Tho lên Sàigòn, xa thì từ Nam ra Bắc, từ Bắc vô Nam, tuyệtnhiên không có cảnh Sở, Tần, Liêu bang, Hồ quốc, Phiên, Man… xa mút tí tè, ngườiđọc chỉ cảm nhận mà không biết đích xác các xứ này ở đâu trên bản đồ châu Á… Họsinh hoạt trong môi trường Việt đã đành, họ còn có đời sống Việt miền Nam: đicâu, đi may thuê vá mướn, đi học ở trường tỉnh Mỹ Tho, đi làm thư ký ở nhàbăng, làm chủ vườn ruộng… Nếu họ giàu thì không phải của cải tính bằng vàngngàn lượng bạc trăm xe mà là ruộng đo kểdặm, lúa đong kể vàn (câu 46).

     Ta trăm năm sau vẫnthấy thân thiết với nhân vật nữ quơ quào quần áo, dắt con lên đường mất hai bangày mới tới Sàigòn mong lập nghiệp để tránh tiếng đời dị nghị vì sự lỡ lầmtrai gái nhứt thời của mình. Ta thân thiết và thông cảm với cô vì cô ta giốngnhư những thiếu nữ ngơ ngác ngày nay từ các tỉnh quận xa xuôi lò mò lên thànhphố mong tìm một công chuyện gì đó làm để kiếm chút tiền gởi về nuôi mẹ, nuôiem, hay những cô gạt nước mắt bước vô đời làm dâu xứ người mà không biết gì vềcái xứ mình sắp đến, kể cả tiếng nói ở đó, cái gia đình mà mình sẽ là một thànhphần, và cả ông chồng nhiều phần là già cỗi, bịnh tật, bẳn tánh, không biết trởchứng giết vợ lúc nào. Cái may của cô gái trong Kể Chuyện Tình Buồn là hầu như luôn luôn cô gặp quí nhơn, trước làngư ông già đã cứu tử lại còn cưu mang, sau là thím thông và chồng là Võ BửuThông tốt bụng, sau cùng là mụ Liễu bên sông sẵn lòng chứa chấp.  Cái may do thời thế lúc đó có nhiều người chịu thực hành nhơn nghĩa,cái may của một đất nước có nhiều người không bị bịnh vô cảm, bịnh vấy máu ănphần, bịnh làm quan vơ vét.

     Ta thông cảm cả vớinhân vật phản diện. Cô ta không nhúng tay vô máu, chỉ mạo tuồng chữ, chỉ đặtđiều vu oan, rủi là người bị hại đau buồn quá bỏ đi khỏi xứ, về sau nghe tinrằng đã chết, thế mà khi bị vạch tội cô ta biết tủi thẹn, biết ăn năn, biết tìmcái chết để đền bù tội lỗi, để được làm người biết hối cải, biết xấu hổ… Cáixấu của cô ta nhờ đó đã trở thành cái đẹp, dầu là muộn màng…

     Trước Hồ Biểu Chánh,trong sinh hoạt văn chương Việt từng có sự kiện tác phẩm có nhiều câu giốngKiều. Đó là trường hợp Song Tinh Bất Dạcủa Nguyễn Hữu Hào[4], đó là Hoa Tiên của Nguyễn Thiện[5]. Nhiềungười đã lọc ra những câu hơi giống nhau và thường bao giờ cái tín chỉ cũng nằmtrong tay Nguyễn Du. Kể Chuyện Tình Buồncũng vậy, GS. Nguyễn Khuê và gần đây nhà văn Ngự Thuyết cũng đi đến nhận địnhrằng Hồ Biểu Chánh trong tác phẩm nầy mô phỏng nhiều câu của Nguyễn Du. Tôikhông bào chữa, tôi cho đó là chuyện bình thường, chẳng có gì quá đáng. Ngayviệc dùng cốt truyện Trung Hoa của những tác phẩm nổi tiếng trong văn học ViệtNam cũng là một sự mô phỏng đúng ra đừng nên có. Xa hơn nữa, cách dùng điển cố,cách sử dụng những cụm từ được coi là khuôn vàng thước ngọc của văn chương cổđiển Việt cũng là một sự bắt chước chẳng có gì đáng vinh hạnh.

    Vì vậy U Tình Lục có những câu giống với ĐoạnTrường Tân Thanh thì ta coi đó như không có, ta để ý đến những ưu điểm của nó.

 

            5. 

   Chữ dùng trong Kể Chuyện Tình Buồn có hai điểu đáng chú ý:

      1a. Là quyển sách chứa đựng nhiều âm của vùng đất cực Nam, 1b. Phong phúnhững từ của riêng Nam Kỳ Lục Tỉnh màvùng Bắc Trung có thể không có hay đã có nhưng bị mất, một hai trăm năm gần đâykhông sử dụng nữa. 1c. Chứa nhiều từ xưakhó thấy trong những tác phẩm sau nầy.

     Âm của vùng đất cực Nam theo tôi địnhnghĩa là những âm khác với âm chuẩn đã có ở vùng khác, hay âm đã được sử dụng trongcả nước. Nó là Luông trong từ Tiết ỨngLuông, nó là Vãng trong từ Vãng Long,nó là Huê (huê) trong Huê Dung Đạo,nó là Giái trong Trư Bát Giái…Ở U Tình Lục ta có thể thấy: bônchon, hoát lê, chê đè, tơi bời, xuông pha, lần lừa, trướng huê, bịt bùng, chúcmầng, phưởng phất, nhơn duơn, phải duơn, căn duơn, nặng trìu, thày lay ướmlòng, thân qua (bậu), chữ hiềm, oan ương, bưng khuâng, thấp thoảng, nhập tràng,vó cu, lòng dòng, xét lợi, tiền đàng, canh tràng, bất nhứt, héo liễu xủ đào, xơrơ, thết vàng, đoạn tràng, lu lờ, chỉ săn, song đàng, công toại danh thiềng, rộnràng, giấn nào, nào nhắp, nhuốm nhen, quí hoát, ơ hờ, thiên các nhất phang, tậnkế vô phang, thinh danh, lăng xăng, tiu hiu, bức tình, nằn nì, khúc kìm, pha phuôi,quăng, lãnh (nhận), hoa bạ, bất bường, bần thần, lá lay, rẽ ròi, ly tiết, bẩygan, kéo nhầu, rứt thịt, lên đàng, ngạt ngào (nghẹn thở), thăn thỉ, lá lay, hẩmhút, rứt thịt chia xuơng, phong võ, lên đàng, ngạt ngào, ửng lòa, lờ đờ, mộtthoàn không, ngoắc vô, héo don, xủ màn, phuôi pha, hôm mơi, thác phứt, gậtmình, con đòi, trở bườm, hột châu, nhen nhúm lửa hồng, lụm cụm, bội (chống lại),tròi trọi, lạc lài, xin vưng, nắng dọi, lần lừa, tưng tiu, nhúm bịnh, dần xây,nhúm bịnh, kiếm nơi quen thuộc, lạc lài, thím thông, chút nguyền, nhà băng, trộng,gian tuân, xây lưng, chẳng phen đài các, ngạt ngào, hôm mơi, vưng chịu, đờn bà,châu mày, vẹn tuyền, thửa trong, đôi phang, tiệc huê, nhúm sương, tả một tờhuê, hún hín, bực nào, nghẹn ngùng…

     2.  Cáchnói Nam Kỳ.

     Cách nói Nam Kỳ là những cách thế diễn tảmà chỉ có riêng tác giả dùng hay những tác giả Nam dùng, ta không thấy người miềnBắc, Trung sử dụng. Chúng là những gì đặc biệt của vùng đất được sản xuất ở địaphương và gắn bó với địa phương, quanh quẩn ở đó, không đi ra vùng khác. Chúngcó thể bị chê là quê kệch, miệt vườn, nhà quê, xến, bình dân, thấp, xoàng… nhưng chúng hiện diện như một sựđứng thẳng xác định thế đứng ngôn ngữ của vùng : tranh thế cạnh thì, hiếm kẻ,hiếm nơi, thói cải lương, lòng son nẻ, dạ mực băng, nể mặt, ruộng đo kể dặm,lúa đong kể vàn, non nhớt, bảnh bai, trong ngoài khít khao, lân la qua lại, bậubạn, dạ nọ lăm le, ăn Trời sao qua, không mòi gió trăng, lời nói thẳng băng, cạnlời chẳng lẻ, dùn thẳng, im lìm, phanh phui duyên mình, ướm coi, ít câu gạtnàng, sợ tiếng bán rao, hai ngã dang ra, chớ lo quanh, cổ bàn đơm dọn, ép dầuép mỡ, còn đương xẩn bẩn, quanh co hải hồ, mang mểnh tình, du học xa miền, nựcnồng tiếng khen, inh ỏi chài, nét ngang chưa biết chữ a chưa từng, quân hay chữ,nói phách, dốt nát, gả con luận của, hơi gió chen lòn, biển lưng không rúng, cậucô lễ nghĩa, rạng ngời ư ngoại, tối hù ư trung, làm phường gái lanh, kỳ trong nửatháng, càng phăng càng dài, lụy ứa thâm bâu, xăm xăm dò lần, lưng chưng cánh hồng,tiu hiu một mình, dắng dỏi, ngon giấc hòa hai, nhuốm nhen, nợ nần éo le, taynào mà nỡ cắt tay, chỉ hồng lần phăng, dễ hầu móc bươi, đèn hạnh lem dem, quănggánh tình chung, đã nư, quỉ báo,  bại sảntán gia, tình tang mặc dầu, mặt đá mày chàm, bận nỗi đền bồi chưa cam, nỉ nài nợduyên, ngằn lại điếng điêng đòi ngằn, lưng túi sầu, lấp thảm quạt sầu, vầy lửahơ, phận vơi đầy, quăng lưới vớt, chen dừng vách phên, khéo nắn, thiệt phận đơncô, quần áo tóm thâu, dắt con quảy gói, gà rừng gáy rân, góa bụa linh đinh, hỏi(quê) quán nơi nào, rậm người rậm đám, lương tiền cũng trộng, mặc sức, đất nầy,đứng nép, om sòm, quá lanh, bận áo, giá lề bao nhiêu, chẳng đã, thẹn thùa, bướctrái vào rèm, cái thầy khi nãy nói chơi, một hai, lưng chưng giữa vời, phải bề,châu mày cắn răng, việc lăng quằng, nhăng đạo nhà, cậy cô, nghẹn ngùng, lậm, mắngrân, quân bình bồng, tránh tiếng tránh lời, lôi thôi, một ừ, dụ dự phân hai, giảquán ra đi, buông lung bổn tánh, đành thửa phận qua, tiu hiu, trìu trìu, bẩygan, trái tai, vi chi, đón đưa bận bịu, xúp lê giục giã, bận lòng, ngứa nghề, rộnrực, khấp khởi, pháy bạc, rầu con, hôn sự bất hài, dập sầu, cười mơn, giựtmình, đem thấu đến nơi, sấn vào, ruột xàu như dưa, khóc òa, vắng oe trong túi,nào dè, bận bịu….

     Nếu muốn thấy chữ dùng đặc biệt Nam, cáchnói Nam, không gì bằng tìm trong tác phẩm của các ông Trương Vĩnh Ký, TrươngMinh Ký, Huình Tịnh Của, trong các quyển thơ bình dân đã nói ở trên và nhứt làtrong các quyển truyện Tàu dịch đầu thế kỷ bởi các ông Trần Phong Sắc, Nguyễn ChánhSắt, Nguyễn An Khương, Tô Chẩn, Thanh Phong hay các bài viết thời báo Nông Cổ MínĐàm, Lục Tỉnh Tân Văn, Nữ Giới Chung…

     Nhưng ngoài ba nhà văn quốc ngữ tiên phongcuối thế kỷ 19 – không còn hoạt động ở thế kỷ 20- các nhà văn còn lại hay các tờbáo kể trên đều đi sau Hồ Biểu Chánh trong vấn đề nầy: sử dụng nhuần nhuyễn từNam.

     Vấn đề đặt ra là có những từ nhìn vô có vẻ rất Nam như thon von, thày lay nhưng cũng có khi dùng ở miền ngoài chẳng hạn nhưchữ thày laython von. Truyện Hoa Tiênchỉ dùng 1 lần chữ thày lay:

Nguyệt rằng mơ mẩn xinh thay.

Cười chăng cười nỗi thày lay dại càn.

    hay chữ thonvon thấy dùng hai lần trongthơ tuồng Chàng Lía..

   Tôi tạm đi đến kết luận về vấn đề nầy: Một sốchữ mà chúng ta gọi là chữ Nam Kỳ thiệt ra là chữ ở miền Bắc truyền vào trongNam thời di dân Nam tiến, dần dần các chữ nầy thông dụng trong Nam trong khi ởmiền ngoài lại mất đi khiến cho ta tưởng chúng thuộc về miền Nam, đặc sản củamiền Nam.

    Số chữ nầy không nhiều, đa phần chữ Nam làdo ảnh hưởng của sự trại âm, kỵ húy, sự ảnh hưởng của của các thứ tiếng của nhữngdân tộc sống chung như Tàu, như Miên, như Chàm, như những người vùng đa đảophía Nam…

    Và KểChuyện Tình Buồn có khá nhiều tiếng Nam, tôi kêu là tiếng Nam khi chúngkhông được người miền Trung, Bắc xài. Chẳng hạn như các từ đã được lọc ra tronghai nhóm trên.

 

     Kết luận về ngôn ngữ của U Tình Lục, tôixin mượn một đoạn ở bài viết của Nguyễn Văn Nở và Huỳnh Thị Lan Phương:

Nhiều từ địa phương nếu không dựavào văn cảnh hoặc nếu không có vốn từ địa phương Nam bộ thì sẽ rất khó hiểu.Chúng ta thử so sánh một số từ địa phương trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh vớinhững từ ngữ có nghĩa tương đương của tiếng Việt toàn dân sẽ thấy rõ điều đó.

- đụng: nam nữ lấynhau, - để vợ, để chồng:li dị, - dòm, coi:xem,- bắt xén: nhen nhúm, bắt đầu, - ể mình: bệnh,- ám sát: bám theo, - trọng: khá lớn,- day mặt: quay mặt,- ráng: cố gắng,- : ngờ, - bận đi, bận về:chuyến đi, chuyến về, - riết: nhanh, - xăng xớm: (đi) mau, - xấp xải: bay qua baylại, - trằn: giữ lại, níu lại...

     Lớp từ này thường được sử dụng trong ngônngữ đối thoại nhằm miêu tả tâm lí và khắc họa tính cách nhân vật. (hết trích)

    Tuy đây là nhận xét áp dụng trong tiểu thuyếtnhưng dùng cho tập thơ U Tình Lụccũng không sai.

 

6.

     Bằng vài lời kết tôi cho rằng tập truyệnthơ Kể Chuyện Tình Buồn đáng trân trọngngoài sự vừa phải trong cách mô tả tình cảm, tình cảm dầu bi thương cách mấy củanhân vật cũng được diễn tả sương suơng, nhẹ nhàng không bi thiết như Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang/ Thôi thôi thiếpđã phụ chàng từ đây nghe như lời trối chết của một người sắp tự tử. Về hìnhthức còn mang được cái không khí nhẹ nhàng lãng đãng trong từng câu thơ do phầntiếng Nôm với đa số tuyệt đối, đã đánh bại phần chữ gốc Hán thiểu số. Đọc Kể Chuyện Tình Buồn ta hình dung ra lờithan của chàng trai ở vào cảnh nửa khóc nửa cười, nhưng vẫn đứng thẳng, kể chuyện tỉnh táo như cách thế của người rặt ròngNam Kỳ Lục Tỉnh trong ca dao, vợ bỏ nhà theo trai, thương lắm, nhưng anh ta nóitỉnh queo:

            Đất Sóc Trăng quê mùa nước mặn,

Tôi ra Vàm Tấn (vàm Đại Ngãi) chở nước về xài.

Về nhà sau trước không ai,

Hỏi ra em đã theo trai mất rồi.

     Thế nhưng tại sao Hồ Biểu Chánh không đitheo con đường truyện thơ mà đổi sang viết tiểu thuyết bằng văn xuôi? Câu trả lờithật giản dị. Ông thấy rằng văn xuôi quốc ngữ những thập niên đầu thế kỷ 20 cònphôi thai, nên ra sức phát triển nó. Văn xuôi có cái tự do của ngôn ngữ, cótính thực tế trong sựmô tả, khiến nhà văn vẫy vùng được ngòi bút của mình.   Với văn xuôi Hồ Biểu Chánh sản xuất được 64 quyển tiểu thuyết, chắc chắn rằngvới văn vần con số nầy không thể nào đạt được dầu ông có tài múa bút thành thơchớp nhoáng đến thế nào đi chăng nữa. Điều quan trọng là những tính cách tạonên đất (ngôn ngữ, chữ dùng) người (tình cảm, cách đối xử) Nam Kỳ LụcTỉnh mà ông đề ra  trong U Tình Lục đều được giữ lại và phát huytrong những quyển tiểu thuyết của ông sau nầy.

     Lời cuối của phầndẫn nhập nầy là lời xin lỗi đến hương hồn tác giả khi tôi thêm cái tên mới vàocái tên cũ cạnh tác phẩm của ông, đó khônglà sự sửa đổi, đó chỉ là một cách thế để U Tình Lục được nhiều người chú ý hơn thôi. Về sự sửa lỗi chánh tả,xin được lập lại, chữ viết mang ý nghĩa qua hình thức của nó, dấu hỏi ngã, chữviết tận cùng có g hay không, cuốichữ bằng c hay t,  phụ âm đầu d hay gi, xhay s…. thời xa xưa có thể hiểu khi cầu cứu đến âm đọc nhưng ngày nay người ta hiểu theo cách viết vì âm đọc được chuẩnhóa theo từng chữ viết. Sửa lại theo chánh tả thông dụng vì sợ người đọc vớinão trạng đã quen với chánh tả ngày nay hiểu lầm cách viết xưa…. Chẳng có ý gìkhác. Người đọc nếu chỉ cần lướt qua KểChuyện Tình Buồn mà thấy trân quí UTình Lục thì chúng tôi đã đạt được kỳ vọng trong việc làm của mình.

     Mong lắm thay!

  

Nguyễn VănSâm (Alexandria, LA, Nov.1, 2013)

 

(trích: Kể Chuyện TìnhBuồn hay là U Tình Lục giới thiệutruyện thơ 1913 của Hồ Biểu Chánh, bản in năm 2013, CA, Hoa Kỳ.)

 

 



[1] Thật ra ông dùng hai lần, lần sau là “Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh” khi inquyển truyện thơ phỏng theo vở kịch nổi tiếng Le Cid của Corneille. Từ đó vềsau khi sáng tác ông dùng bút danh HồBiểu Chánh, khi viết nghiên cứu, biên khảo, ông dùng tên thiệt: Hồ Văn Trung.

[2] Nhiều tác giả viết sách đã lộn ông Nguyễn Văn Vinh BếnTre của những tác phẩm luận về cuộc sống xứng đáng với ông Nguyễn Văn Vĩnhngoài Bắc của Đông Dương Tạp Chí khiếncho có sách nói một bút hiệu của Nguyễn Văn Vĩnh là Tân Nam Tử trong khi đó, bút hiệu nầy là của ông Nguyễn Văn Vinh.

[3] Sách đạo, viết bằng thơ Nôm gồm 290 câu lục bát, nghĩlà thuộc thế kỷ 19. Tài liệu riêng, nguyên bản viết tay, sưu tập của Nguyễn VănSâm.

[4] Phạm Thế Ngũ, ViệtNam Văn Học Giản Ước Tân Biên, q2, trang 226 và Nguyễn Văn Sâm, Văn Học Nam Hà, trang 166-7  có lược ra.

[5] Nhiều người đã nói trong những tác phẩm nghiên cứu vềHoa Tiên.