Nhà văn Võ Kỳ Điền và dòng ý-thức xuyên-suốt trong tác-phẩm

Nhàvăn Võ Kỳ Điền sinh ngày 30.10.1941 tại Dương Đông,Phú Quốc, trưởng thành và hành nghề dạy họcở Bình Dương (và một thời gian ở Ba Xuyên)sau khi tốt nghiệp ban Việt Hán Đại họcsư phạm Sài Gòn. Vượt biển đến Mã Lainăm 1979 và định cư ở Montréal rồi Toronto. VõKỳ Điền bắt đầu viết vănkhoảng năm 1980, những truyện ngắn đầutay của ông xuất hiện trên tờ Dân Quyền ở Montréal và Làng Văn ở Toronto (Canada) trước khitrở thành một trong những nhà văn góp phầnđánh dấu một giai đoạn văn học lưuvong nặng chính trị nhất của ngườiViệt. Tờ Dân Quyềnsố 1 ra đầu tháng 2-1978 đến năm 1987ngưng mặt báo chí, thông tin văn nghệ để thamgia các liên minh và mặt trận đấu tranh trên các diễnđàn hải ngoại - nay đi vào quên lãng đốivới các thế hệ sau. Những cây viết của nhómnhư Bắc Phong nay ngưng làm thơ, nhà nghiên cứuNguyễn Huy, nhà thơ Vũ Kiện đã mất ởQuébec, Nguyễn Ngọc Ngạn từ bàn đạptiểu thuyết chống Cộng trở thành nghệsĩ nói, một số khác (đã) đi vào đấu tranhvà số khác nữa sử dụng 'lý tưởng'để hợp tác với 'kẻ thù' theo ... thời.Phần tư thế kỷ sau, thời gian và chính trịthế-giới đã xoay chiều. Cuộc chiến tranhlạnh đối với nhiều nước vàchiến-tranh Việt-Nam đối với Hoa-Kỳ đãlà chuyện ... tiền kiếp, với ngườiViệt thì vết thương chiến-tranh đó có khivẫn chưa thành sẹo. Dĩ nhiên nếu không nuôi ...sẹo như Triều Sơn thời tha hương đilính cho Pháp thì cũng không thể quên vết sẹonhiều lúc vẫn làm ngứa tâm can, một loạisẹo "thế hệ" không dễ gì quên. Nhưng,đời sống vẫn theo dịch lý tuần hoàn vànước vẫn chảy dưới cầu, mùa Đôngcực Bắc Mỹ có đông giá nhưng nướcvẫn âm ĩ chậm trôi ngầm bên dưới nhữngtảng băng. Cũng chính thời gian đã cho thấyThiện Ác và nhân quả nhãn tiền. Riêng Võ KỳĐiền, sau những trận ... chiến Văn Bút vànghiêng ngã tình đời, tình người, ngưng sáng tácmột thời gian, nay hình như đã ổn địnhcuộc đời và gần đây sáng tác trở lại vàthiên về bút-ký. 

 

1.

"Biếncố đau thương 30.4.1975 đổ ập xuốngđầu dân chúng miền Nam như trời sập. Trongcái biển đau khổ tột cùng ngườingười bị dập vùi như cọng rác trong cơnsóng lớn" (Lời Tựa KẻĐưa Đường, tr. 6). Biến cốđến như một tai họa bất chợt;lịch-sử như bị cắt đứt, hiệntại với quá khứ như không còn liên hệ, ít ra làkẻ cưỡng chiếm miền Nam cũng muốnnhư vậy. Viết lại lịch-sử giaiđoạn này cũng là một vấn nạn vì phe nàocũng có những chủ quan và thị-kiến riêng.Người viết sử chân chính có những khó khănkhi đụng đến thời đại vừamới qua, quá gần. Nhà văn ngược lại, tươngđối không bị những trói buộc khách quan đó.Tác-phẩm trở nên công cụ của chứng giámlịch-sử, với những hình thức và kỹthuật tự truyện, bút ký và tiểu-thuyết : nhàvăn và người đồng thời là nhữngchất liệu sống động. Văn bản,tác-phẩm văn-chương trở thành bằngchứng, là kết quả của chứng giám, củanhững gì được nghe, được nhìn thấy.Sự việc tự nó không là bằng chứng nếu khôngđược trãi qua tiến trình ghi nhận. Nhân chứngtrở thành phát-ngôn viên của một chân lý, tườngtrình cái đã sống, đã để lại dấu vết,đã còn nhớ lại. Sử gia sẽ đến sau, lúctro tàn đã lắng xuống và từ những chứng giámđó mà khai triển, cân nhắc đánh giá sự kiệnvà chân lý trên là chân lý kiến thức hay chân lý của lòngtin, hay cả hai.

Mặtkhác, nhân chứng tự bản chất là dấn thân, muốnnói lên, muốn trả lời về sự thật,trước tha nhân - những người đang ngheđang đọc, hoặc hậu thế. Lời chứngnhư vậy nhập vào một hệ thốngdiễn-văn, nơi biến cố và ngôn-ngữ gặpnhau; khiến hiện thực và ngôn-ngữ có mối liênhệ mật thiết, nối kết chứng giám sựkiện và chứng giám ý nghĩa. Võ Kỳ Điềnđã nhận vai trò làm nhà văn chứng giám, một nhânchứng và là một người dân Việt muốnsống yên cũng đã không được nữa, khi'trời đất nổi cơn gió bụi', 'đấtbằng nổi sóng', các biến cố lịch-sử đãùa đến phủ lên người những taiương, bất hạnh, ... Từ thân phận nhà giáo,ông thầy Võ Tấn Phước (tên thật) bịlửa loạn lịch-sử cuốn hút, thoát rađến hải-ngoại trở thành nhà văn nhânchứng Võ Kỳ Điền. Trong Lời Tựa tậptruyện Kẻ ĐưaĐường, ông cho biết lý do viết :"văn-chương đích thực phải là tiếngnói của kẻ yếu dad61u tranh chống độc tài,áp bức, bạo lực, bất công bất cứ từđâu đến. Nó phải chống bất cứ hìnhthức nô lệ nào, chống sự ngu xuẩn, hầuđưa Con Người vươn lên từtăm-tối-đổ-vỡ" (tr. 8). Khi viết Pulau Bidong, Miền ĐấtLạ (1992), ông cho biết đã quyết địnhphải viết cho con cháu sau này "hiểu tại saocả nhà phải liều chết ra đi ăn đậuở nhờ xứ người". 

Vớitập truyện KẻĐưa Đường (Viet Publications, 1986), Võ KỳĐiền đã nói lên tiếng nói chống độc tàivà ngu xuẩn của một loại 'con người'(Lời Tựa). Phần lớn là những chuyệnđổi đời sau 1975 qua các nhân vật chân chấtquê mùa, ở tỉnh nhỏ nhưng tinh thần chống ápbức lộ rõ, như bác Năm hớt tóc, ông Bảythợ rèn, chú Bảy Cò, qua nhân-vật các cán bộ từbưng biền ra và từ Bắc vào tiếp thutrường học, cơ sở, "tiếp thu"cả ... con chó của Ty giáo dục; qua các chuyệntrả thù cán bộ, "sửa lưng" cán bộ quáthuộc lòng những bài bản tuyên truyền, v.v. Nói chung,những bức tranh bi hài về con người và xãhội "mới" cùng những ngậm ngùi cho nếpsống nhân bản vừa mất!

Chốnhọc đường thân yêu của tác-giả đã là sânkhấu 'giải phóng' và 'cách mạng' : chuyện Quì,một anh học trò cũ vô bưng nay trở vềtiếp thu ngôi trường cũ : "Quì thay đổihẵn ra. Đầu đội nón tai bèo, chân mang dép râu, bênhông đeo khẩu súng ngắn, vai mang chiếc bóp da.  Nó ngồi tại cái bàn của ôngHiệu Trưởng, thân thể có hơi ốm hơn lúctrước, cộng thêm nét dày dạn, đen đúa, phongsương. Duy cặp môi và ánh mắt thì khác nhiều.Cặp môi thâm hơn. Vẻ trưởng thành, già giặnhiện rõ trên khuôn mặt. Những ngày đầu tháng năm, biểu ngữcờ sao đầy phố. Trường tôi cũng đỏ rực một màucờ máu.  Ông HiệuTrưởng, vốn đã nhỏ con, bây giờ gầy tóplại.  Cái cà-vạtthường ngày không còn. Ông lại bỏ áo ra ngoài, chưnmang dép, coi cũng có vẻ giác ngộ cách mạng" (ĐáHoa-Cương, KĐĐ tr. 80-81). Nhưng theo 'cáchmạng'  thì sao đọđược với 'chuyên chính' : vài tháng sau, Quì bịmột cán bộ "ở ngoài Bắc vô, tốt nghiệpĐại Học Sư Phạm Thanh Hoá, mườimấy tuổi đảng" vào thay thế. Ông thầy,thuộc phe 'thua', an ủi học trò cũ : "...Đừng mong làm hoa hướng-dương, suốt ngàyngước mắt nhìn mặt trời hoài mỏi cổlắm. Cũng đừng thèm làm đá xanh cứ phảilót đường cho người ta đi. Em phảinhớ một điều, vì lý tưởng cao cả, chúngta có thể chấp nhận hy sinh thân xác để bón lúa,chớ đừng bao giờ dùng nó làm phân để bón chothứ cỏ dại sinh sôi nẩy nở..."(KĐĐ tr. 84).

TrongCon Chó Đi Lạc, trong một thời gian mà đổihiệu-trưởng đến ba lần, ngườicuối cùng là 'anh Chín', đảng viên, nói nhiều chữkhó hiểu như "cái gì mà 'đại bộ phận''hạ quyết tâm' 'chủ yếu' 'động viên''quản lý',...". 'Anh' Chín hiệu trưởng nói láođể giựt cho bằng được con chó" mà'chú Cân' tùy phái đã tình cờ bắt được,trước phản ứng lật tẩy củangười tùy phái, 'anh' Chín bèn toa rập với SáuViệt trưởng Ty Giáo Dục đế cướpcon chó để cùng chén chú chén anh. Những thứ conngười 'siêu việt' ... chiến thắng đớpchả chó mà còn tự đề cao: "-Đúngđấy, con chó béo bở như thế nầy, phảidành cho dân cán bộ Hà Nội chính cống bọn mìnhbồi dưỡng mới đúng. Chứ để chobọn Nam bộ ấy mà thịt con cầy nầy thì phílắm. Tụi nó có làm ra trò trống gì. Giá mà không có mưukế của chúng mình thì nó đã lọt vào tay cái thằnggì... gì ấy nhĩ, ôi chao hỏng bét !  Cứ kể như là vấtđi" (KĐĐ tr. 108).

Mộtnhân-vật khác, ông Bảy thợ rèn, người chỉtin những gì trông thấy, nên đã không tin trái đấttròn và không tin lời bác Cơ bán phở, một ngườiBắc di cư vô Nam sau hiệp định Genève, vì bác kể“ngoài Bắc người dân sống khổ cực. Công ankìm kẹp, theo dõi, bắt bớ. Dân chúng làm quầnquật mà không có ăn. Nhà cửa, đất đai, xecộ gì cũng bị tịch thâu hết. Sống thua conbò, con heo !”. Ông Bảy hùng hồn phản bác và chorằng "Người làm cách mạng, cũng như taorèn cục sắt, chỗ nào cao phải đập chodẹp xuống, chỗ nào thấp phải gò cho cao lên.Như vậy mới gọi là cách mạng. Nếu cáchmạng sai lầm, sao tao với ông ngoại mầy cho chúÚt với cậu Bảy mầy đi ra Bắc ? ... Cộngsản là công bằng” (KĐĐ tr. 40, 41). Nhưng sau biếncố năm 1975, Ông Bảy thất vọng về ‘cáchmạng’ của Hà-nội: “Ông Bảy cuời mỉa : -Hứ,rèn cái kiểu cộng sản. Tụi nó nhắm mắtlại mà đập. Chỗ cao xẹp xuống đãđành, chỗ thấp cũng dẹp lép. Tao già nhưvậy mà hôm trước còn bị giáo dục. Ngày lễmừng sinh nhựt cụ Hồ có lịnh phải treocờ trước nhà. Nhà tao bây giờ thục tuốt phíasau, nó là cái garage, có phải là cái nhà đâu. Vậy màthằng công an khu vực đi sồng sọc vào giữanhà, hăm he đủ thứ. Tao đành phải đikiếm mua để treo...". Tác-giả kếttruyện : " Ông Bảy nói tới đó, ngồithở dốc. Nỗi bực tức làm ông mệt nhòai.Không giận sao được, cả đời ôngđầu tư trọn vẹn tình yêu vào cách mạng,nghĩa là trong đó có thằng con trai út của ông. Nàongờ ông đã lỗ vốn nặng. Cách mạng vềấm no hạnh phúc tìm hòai không thấy. Chung quanh chỉ cókhóc than đói khổ, tức tưởi, căm hờn.Riêng chú Út mặt mày giống hệch ông nhưng tình cảmvà ý nghĩ giống Bác và Đãng. Cái giây liên hệ cha conmong manh quá. Ông Bảy phải trên hai mươi nămmới thấy điều đó. Ông đã trồng cái cây“cách mạng” thật là công phu, bây giờ lại hái cái tráiđắng nghét” (Ông Bảy Thợ Rèn, KĐĐ tr. 44). Thìcũng có khác nào các Năm hớt tóc, sau 1975, "cuộcđời bác biến đổi từ đủ ănxuống nghèo, từ nghèo xuống tới mức mạtrệp. Thời gian để phấn đấu đượctới nghèo đói là năm mươi năm làm việccực nhọc (...) Cuộc cách mạng bây giờ quá to tát,vì phải nhân danh nhiều thứ nên hiện tại bácNăm còn được cái quần xà lỏn đen, ởtrần phơi xương sống xương sườnmà đứng hớt tóc nơi cái xóm bình dân hẻo lánhnầy" (Bác Năm Hớt Tóc, KĐĐ tr. 20). 

 

2.

Trờiđất đã nổi cơn gió bụi, đất lànhthành hang cọp, lòng người hiền hoà đấtmiền đông và cả miền Nam một sớm mộtchiều thành lòng lang dạ thú; con người đànhbỏ quê nhà mà đi, ra biển, về nơi vôđịnh. Trong truyện dài PulauBidong, Miền Đất Lạ, viết từ năm1981, 10 năm sau đăng từng kỳ trên Tập-san YSĩ (Montréal) trước khi nhà Xuân Thu ở Cali xuấtbản năm 1992, Võ Kỳ Điền tả cuộc rađi đầy bất trắc và bi thương củanhững người dân bình thường không thểsống chung với con người cộng-sản.Truyện dài này cho người đọc nhận ramột tình thâm thắm thiết nơi tác giả đốivới người thân của ông cũng như vớinhững con người đồng cảnh ngộthuyền nhân. Truyện đánh dấu biến cốlớn đồng thời cũng là vết thươngtích đối với lương tâm nhân loại :thuyền nhân (boat-people)!

Cuộcsống tị nạn, lưu vong ở xứ người(Bóng Nguyệt Lòng Sông, Một Thời Để Yêu, Rêu PhongMấy Lớp, ...), từ căn bản đã là biếnthiên, nương chiều theo cuộc đổi thay, ngonthì oai hùng vẫy vùng (thật sự), tệ thì cũng locho cái sống còn lẽo đẽo theo kiếp người;tuổi già và tàn tạ nhân sinh thì ở đâu cũng khôngthể tránh!

TrongRêu Phong Mấy Lớp, Võ Kỳ Điền kểchuyện ông bà Năm, một cặp vợ chồng giàđình cư ở Montréal (!) mà lúc nào cũng cứ ngỡcòn trong tầm mắt thấy "nhà mình" nơiquê-hương xa xôi. Khi gặp lại người quenmới qua định cư hỏi thăm mới biếtcơn gió bụi đã đến với cả "nhàmình" : những cây nhãn, cây mận và cả cây mai giàgiữa sân đã bị con người chế độmới đốn ngã để làm hợp tác xã:

"... Ông Năm ngồi dán người xuống ghế,lỗ tai lùng bùng. Ông thấy những biểu ngữgiăng giăng, những rừng cờ đỏ sắtmáu, những đoàn người mặt đầy hậnthù tràn vào tỉnh lỵ, tiếng nhạc đậpđùng đùng chói tai. Ông thấy rất rõ nhữngđứa con ông, những đứa cháu ông lầnlượt bị bắt giam. Ông thấy tận mắtngười ta bị bắt giết, đánh đập,giam cầm... Ông thấy những cảnh chia ly, đầyđọa, tang tóc, khổ đau. Ông thấyđược những việc, những người mà cảđời chưa bao giờ được thấy qua.Tất cả đều quá lạ lùng, không thể nghĩđến nổi. Xã hội mới, đấtnước đổi mới là vậy đó sao ? Ông có quálỗi thời, cũ kỹ, già nua ? Cái nhà bê tông cốtsắt trong đầu quay mòng mòng, tấm hình trong tayrơi xuống đất nhẹ đến nổi khôngnghe tiếng. Bên tai, ông nghe tiếng vợ móm mém, nói văngvẳng khi gần khi xa:

-À, nó nói cái năm mà vợ chồng mình hiến nhà cho nhànước để được đi đó, hồichưa bị chặt thì cây mai trổ bông nhiều lắm,rụng vàng cả đường đi!

ÔngNăm bất động, hồi lâu tỉnh lại nói nhonhỏ:

-Tạisao mình đi mà nó lại không biết, trổ bông chi chonhiều vậy! Tại sao vậy ? Nó không biếtthương tôi với bà sao mà... Hay là nó chưa biết nhàđã đổi chủ từ lâu!".

TrongCâu Hỏi Kiếp Người, người tình đầuđời gặp lại nơi xứ người khiđôi bên đã yên bề gia thất, câu hỏi 'anh cóhạnh phúc không?' trở thành cái nợ đời mànhân-vật Hoàng 'tưởng sẽ không bao giờ trảđược và mãi mãi'! Truyện Bếp Hồng (còn có tựaBếp Lạnh) làmột trong những sáng tác thuộc giai đoạn sau này.Nơi đây là một Bếp Hồng tức không phảilà Bếp Lửa nhưđối với Thanh Tâm Tuyền thời tuổi đôimươi; mà ở đây, nơi xứ người, cáilàm ấm cuộc đời vẫn là những tình thâm dùhệ lụy. Ngọn lửa không những cần chonhững món lương-thực trần-gian, mà còn là cái khôngthể thiếu cho con người, cái làm sống và đemhương vị đến cho đời !

Ởtác-phẩm dù không nhiều của Võ Kỳ Điền,người đọc sẽ khám phá một số mảnhđời của người Việt-Nam sau biếncố tháng 4-1975, những cuộc phiêu lưu tìm sựsống và tự do của thuyền nhân cũng nhưđời sống ở xứ người, trẻ có, giàcó và có một số rất riêng nhưng đa số làphận chung.

 

3. Ý-thức xuyên suốttác-phẩm

Nóimột cách tổng quát, văn phong một tác-giảthường theo một đơn chất hay nhất quán :nhất quán về hành văn, giọng văn, về vănbản; đơn chất của tác-giả và củacả độc giả - độc giả nào, tác-giảnấy! Đây có thể gọi là ý-thức hệ củavăn bản. Một tin tưởng nhân bản, mộtcốt-lõi làm một, làm nền cho văn bản. Viết,đối với Võ Kỳ Điền là để dóng lênmột tiếng nói cố vạch rõ (nhắm tố cáo, dùcó thể không nói ra) những hành động và lời nóilừa lọc, phỉnh gạt người dân, nhữnglừa dối 'nguyên chất' (không thể có biện minh).Qua các tác-phẩm-chứng-từ, tác-giả đã vẽlại những mẫu, những nét, những mảnhđời dở dang. Ông đã trở về quá-khứđể thấy rõ quá-trình của nhân-vật và đểbiện minh tâm lý các nhân-vật và như vậy, đưaý thức vào văn phong sử dụng để kểlại những tàn bạo và bất nhân của những conngười (thắng một trận chiến) đãxảy ra trong một lịch-sử gần. Giọngvăn Võ Kỳ Điền mang nét phúng thích,  phúng thích những cái gọi làkhách quan của 'chân-lý' (áp đặt!).

Sautháng Tư 1975 (và cho đến 30, 35 năm sau), miền Nambị người Bắc phương biến thànhđịa ngục và hầu như mọi ngườiđều là nạn nhân, bất kể tuổi tác:"Chị Sáu ơi, trong các thứ định mạngở cái cõi đời nầy, thì Cộng Sản là cáithứ định mạng khắc nghiệt nhứt.  Nó là chén thuốc độccuối cùng bắt cháu Thuỷ uống từ giọt,từ giọt,..".(Bóng Nguyệt Lòng Sông, KĐĐ tr.150). Trí thức hay dân thường đều trở thànhnạn nhân, tài sản, sự nghiệp có thể bịtước mất, nhưng nạn nhân vẫn còn khígiới lý-trí và ngôn-ngữ qua những lời nói đùa, nóiđía, châm biếm, trào phúng, nhại, nói ngược, nêuđích danh, nói thẳng thừng, thách đố, vạchmặt láo là láo, hứa hão là hão, là gian, ... trướcnhững tình cảnh bất bình, tình thế tréo cẳngngỗng. Bi quan, thất vọng, mất tin tưởng,bất hạnh vì trớ trêu của con Tạo, lời nóitrong tình cảnh đó có thể lật ngược tìnhthế, một gỡ nút bất ngờ.

Conchữ bóng gió hay thẳng thừng, tất cả, trongmột hoàn cảnh nào đó, đã muốn sự thậtsáng tỏ, ngầm muốn đặt lại tôn ti caothấp dù đang bị kẻ 'thắng' cưỡngchế lập lại bảng giá trị (kẻ thắng,người thua, kẻ 'giải phóng', ngườithuộc về ngụy, địch, cán bộ 30, nằmvùng nay ra mặt, ...). Tả cán bộ Việt cộng thì :"... cán bộ áo trắng, bộ đội áo kaki màu cứtngựa xanh đùng đục, mang dép râu"(PBMĐL tr.14).  Hay những cảnhsống :

-"Cho đến một ngày mà người ta nuôi heo trongdinh Độc Lập hoặc xúm nhau cởi trầnbửa củi ở trước sân tòa Đại sứAnh thì tôi quay trở về tỉnh cũ với một tâmsự rối bời. Ngoài đường xe phóng thanhchạy rầm rộ khắp phố. Những điệunhạc lạ lùng khó nghe, chói tai vang dội, nửa nhưvui mừng chiến thắng, nửa như đedọa..." (KĐĐ, tr. 19)

-"Từ ngày mấy ổng bỏ rừng về thànhphố, toàn dân miền Nam đâm thất nghiệp. Vợcon công chức quân nhân chế độ cũ, chồng chabị đày đi một nơi khỉ ho cò gáy nào đó,ở nhà túng quẩn, phải bương chải tảotần, kiếm kế sinh nhai, hầu sống còn quangày.  Họ trở thành bạnhàng buôn thúng bán bưng bất đắc dĩ".(PBMĐL, tr. 14).

Văn-chươngtrở thành chứng-từ,Võ Kỳ Điền đã tấn công mưu đồgiấu sau những mỹ từ, vạch mặt lời vàcách nói vẽ rồng vẽ rắn, so với thựctại tệ hại, sự thật đau lòngtrước mắt. Phúng thích ở Võ Kỳ Điền vàhoàn cảnh miền Nam sau 30-4-1975, còn mang tầm vóclịch-sử quan trọng của một tập thể dùbị 'thua'. Nhìn nhận phúng thích như khí giới cònlại và sử dụng tài tình tùy hoàn cảnh, đó làđặc tính chính-trị nhân bản có từ xa xưa,trước cả thời Khổng-tử. Phúng thích khôngchỉ là một phương tiện của lý trí, tríthức, mà còn là một tham gia nhập cuộc vào cuộctranh đấu chung có tính chính-trị - tức liên hệgiữa người với người, một cuộcđấu tranh có chiều sâu và viễn tính. Những ca dao,văn vè truyền khẩu đã là những khí giới cònlại, không bạo lực nhưng hiệu quả, củangười bị trị chống toàn trị và tànbạo, những phê phán của 'miệng đời',của kho tàng văn chương truyền khẩu dân gian,tất cả sẽ ở lại cùng lịch-sử:

- Nam-Kỳ Khởi-Nghĩatiêu Công-Lý

   Đồng-Khởivùng lên mất Tự-Do.

- Vẹm vào, vênh váo, vơ vét, vội vù !

- Miền Nam nhận Họ, miền Bắcnhận Hàng

- Đôi dép-râu dẫm nát hồn son-trẻ

  Chiếc nóntai-bèo che khuất nẻo tương-lai.v.v.

Nhàvăn nhân-chứng Võ Kỳ Điền đã sống,đã là nạn nhân và đã nhìn thấy, đã hiểuchế độ mới áp đặt, khi đặt bútviết, ông đã làm công việc một sáng tạo ngữpháp: con chữ phản ảnh thực tại mới,phản ảnh nhận thức và ý tưởng và nhữngcái 'Tôi' và 'chúng ta' nhập trùng làm một. Cái 'Tôi' biếnmất, bị chối bỏ, bị vô hiệu hóa,nhường chỗ cho cái 'chúng ta' tập thể trongmột xã hội mà cá nhân (và tập thể phe 'thua') bịthu hẹp, bé nhỏ, vô nghĩa một cách cưỡng báchtrong khi cái thậm xưng 'chúng ta' có mặt khắp nơi,cưỡng chiếm hết mọi của cải, tiệnnghi và ngay cả bóng cây, hơi thở hay riêng tư thầmkín (tiếp thu, tố cáo, kiểm thảo, tự kiểmthảo). Cái 'chúng ta' mới này không có mặt những 'cáiTôi' của phe thua, 'thua' nhưng là chủ nhân chính thứccủa miền đất do tổ tiên để lại,'thua' dù không tham gia chiến-tranh, phe phái! Trở thành sốkhông suốt bốn năm trước khi tác-giảcực chẳng đã, phải quyết định bỏquê-hương mà đi tìm sự sống con người :"Gần trên bốn năm nay rồi tôi sống imlặng, vật vờ, thu mình như một cái bóng mờ,lặng thinh câm nín. Một chút động tĩnh cũngkhông dám. Người ta hoài nghi, xoi mói, rình mò ..."(PBMĐL tr. 20). Như ông giáo Hưng trong Một ThờiĐể Yêu: "Đi đâu cũng được,miễn là khỏi phải sống một cuộcđời cực nhục, khổ sở, dưới bàntay sắt máu, của bọn người vô tâm" (tr. 135).

Đếnđược các đảo tị nạn chưa hẵnđã thoát đau khổ, như chỉ mới chực ratới bậc cửa địa ngục. Hoàng, mộtnhân-vật trong Bóng Nguyệt Lòng Sông đã kể lại:"Ở đây mỗi ngày tôi được chứngkiến hàng bao nhiêu thảm kịch mà đồng bàophải gánh chịu. Chết chóc, đói khát, bịnhtật, bão tố, hãm hiếp, giam cầm, đánhđập, con mất cha, vợ lạc chồng,người nào người nấy xơ xác như tráimướp phơi khô, tàn tạ, ủ rũ như cây cãihết nước.  Nỗibất hạnh của gia đình chúng tôi có thấm thía gìvới cái bất hạnh của cả một dân tộcbị đọa đầy". (KĐĐ tr. 151).

Ngườira đi vì không còn lựa chọn, như 'chú Hai thợbạc, quê ở Sóc Trăng' trong truyện Cây Sầu RiêngVườn Cũ: "Tại bên mình khó sống quá, vừanhức đầu, vừa nghẹt thở, nên phảiđi. Chớ vui vẻ gì. Tôi đâu có muốn nhưng hoàncảnh bắt buộc. Thầy tư nghĩ coi, cáitiệm thợ bạc nhỏ xíu cũng bị tịchthâu.  Thôi đành dẹpkềm, dẹp búa. Tôi làm đơn xin về quê làmruộng. Nhà nước cũng không cho, bắt phảiđi xây dựng kinh tế mới. Cái chế độ gì có mắt không đượcnhìn, có tai không được nghe, có miệng khôngđược nói, thì ở lại làm gì.  Nói thiệt với thầy tư,tôi ngồi đây mà đầu óc vẫn nhớ Bãi Xàu. Trướcnhà tôi có cái rạch nhỏ, chiều chiều ra đằngtrước câu cá, cũng đủ vui.  Lớn tuổi rồi, đâu cònham muốn gì nữa!"(KĐĐ tr. 64-5).

Trongcác tác phẩm ở giai đoạn đầu, nhất làtrong các truyện ngắn, Võ Kỳ Điền tỏlộ một văn phong miền Nam đặc biệt,không quá "miệt vườn" như HồTrường An, Nguyễn Tấn Hưng, NguyễnĐức Lập, cũng không quá ... 'nóng' như vănKiệt Tấn, Cao Bình Minh, nhưng gần với NguyễnVăn Sâm - có thể vì cùng gốc mô phạm! Các truyệnviết về sau của Võ Kỳ Điền mang chấtký, nhiều hoài niệm và triết lý nhẹ nhàng, tức làông theo khuynh hướng tự-sự trội bậtcủa mảng văn học hải ngoại nhữngnăm cuối thế kỷ XX và đầu một thiênniên kỷ mới. Ngòi bút Võ Kỳ Điền trướcsau luôn đi sâu thám hiểm tình người, ông muốnchạm những ngõ ngách bí hiểm mà chỉ có cuộcđời kinh qua mới nhận ra được!Giọng văn Võ Kỳ Điền mang tiếc nuối,nhung nhớ, ... ngay cả ở những hoàn cảnhphải phản ứng, đối kháng, phẫn nộ,giọng văn vẫn không hề tàn độc, thâmhiểm! Với ông, hình ảnh, chứng từ là đã quáđầy đủ !

 

NguyễnVy Khanh

2-2008