Thơ Hà Nguyên Du

Từ khi nhân tố H.O. thêm vàocho cộng đồng người Việt hảingoại, thi ca Việt Nam vốn ngày càng dày dặc củirừng bỗng trổi lên những tiếng thơ conchữ của hy vọng. Hà Nguyên Du nằm trong sốđó, anh rời quê hương mười năm; saunhiều mất mát, hệ lụy, hai năm nay anh đã chora đời hai tập thơ, LốiKhác (Garden Grove CA: Tân Thư, 1998) và tập (anh biết, em yêu dấu)(Westminster CA: Tự Lực, 2001)đây.

Người đi tìm thi tính,bước trên những lối lạ lẫm của HàNguyên Du sẽ không thất vọng. Những vần thơcho cảm tưởng tay thợ sành rốt cùng  đầy chất nghệthuật, đầy ẩn dụ và tiềm tàng hứahẹn. Dọc suốt tập thơ, một chấtnghệ khi âm ỉ khi hiển nhiên, người thơtỏ một tâm hồn nhạy cảm nhưng cũngcương quyết theo tình huống của phút giây,của hoàn cảnh ngoại vi chung đòi hỏi. Đây làmột người thơ sống, thở để sángtác, sống vì thi ca, sống mạnh với những tinhtế của nghệ thuật, với ý chí nỗ lựcmở những con đường mới!

Hà Nguyên Du có vẻ làm khóngười thưởng thức thơ với chữ dùnghiếm, bất ngờ, những cung nhạc đứtđoạn, những tình ý bỏ ngang,... nhưng cũngchính đó là nét đặc biệt của Hà Nguyên Dụ Anhnhư cút bắt với thơ, thơ xuôi mà không xuôi,thơ mà như nói thường, phẫn nộ, đốithoại, giao tiếp.... Những vần thơ nhịpnhàng hay trắc trở , tỏ tình hay oán trách. Ở hìnhthức, xuống hàng, vần bằng trắc, thanh bìnhthượng, cách ngắt câu, chơi chữ như tựđiển xếp nhầm bộ, thanh. Ởsử-dụng dấu chấm than (Thơ Xuân NhiềuDấu Chấm Than!!), ở hình thức xếp chữ lêntrang - bài Bố Cục Mới viết thành chữ B, bàiHữu Dũng có dáng chữ S,... Bào Thai Cảm Xúc chữ Cmà như E hoa hay chỉ là mũi tên bào thai gây xúc cảm? BàiHào Quang chữ hẹp dần sau khi đã rộng mở - cóthể cốt bày tỏ cho người đờinhững tâm tình phản kháng, nhức nhối, tư duy, chánchường,... của một hồn thơ từng đãphải sống trong những hoàn cảnh không lựachọn, xác hồn bị đọa đày, nhưng tâmhồn luôn thao thức, luôn hướng về đẹp,thật,... Những vần thơ có cái vỏ cayđắng, bạo động,... nhưng đượcbọc với cái ngọt ngào của mía hấp chín tớicủa tình người!

Thơ Hà Nguyên Du làmngười đọc văn chương choáng ngợp vìnặng nề những tương phản của tình ý vàcủa đời sống hiện thực. Thơ ởđây là tận cùng cảm xúc, cái còn lại sau nhữngđam mê, những sống thật. "tôi sinh tôi / sinhnhiều thơ / lắm con chữ rặn / như phờphạc ra / một bào mang nặng / trên ta / một khốiu uất,..." (Tôi Sinh Tôi). Hà Nguyên Du định nghĩathơ "như hơi thở / một sinh lý cập nhật"sau khi "không còn gì để cho / khánh tiệt" vẫnhãy "còn thơ còn thơ"(Không Còn Gì). Thơ nhưmột cứu rỗithiết thực:

"... và riêng em riêng em

dụ ngôn ta thấm mậtbông quỳ

lúc đời là mùa đông ngãâm

mùa đông đóa hồnghết rộ

le the cúc héo vô thường

chút ráng em pha vòm cây cuối ngõ

núi đứng u tình sợ bóngđi qua

thơ cứu rỗi trêntừng nhịp đập

như thiền sư tiếpngộ phút giây"

(Dụ Ngôn Mùa Đông)

vì thơ có thể soi tốiám:

"... thơ huyết tự

bật đèn

soi bóng tối

phàm tha nhân

chính hệ

xác thân này!"

(Thuần Điệu).

"Biển đời dângcuồng nộ" thành phải "để con chữ /ru hời cơn thống khổ / thương con thơmong thoát chỗ lưu đày" (Thương Con). Thi catrở thành ánh sáng hay hy vọng cuối: "xoáy trôn ốc/ đi vào vũ trụ /quây hướng tâm / thâu đủchuyện đời / ta là ta / của trăng vơi /của con nước cạn / của mồi hư vô / emlà em / của ta thơ / của miên viễn / của bếnbờ chân, như" (Chân, Như).

Cũng có khi ngườithơ hổ thẹn, muốn Đóng Đinh Chữ, có khikhứu giác không làm đủ bổn phận "khiếnchữ thông tim / thơ phù sa đất cằn / chảđếm xỉa đến mùi lai riêng hoa" (ViếtỞ Ficomp, Santa Ana). Người thơ có cái tâm sâu,nhạy cảm, với những sinh vật rấtthường:

"anh biết, em yêu dấu

khi dòng sông trôi

sông cuộn mình cuốn đimuôn chất thải

nước giảm xanh

rong rêu ám màu lây vạ

sóng nẩy tâm sinh sát bọtbèo..."

(Anh Biết, Em Yêu Dấu 1)

Thơ Hà Nguyên Du có nội dung,chuyên tải tâm tình, tâm sự hay thông điệp, kinhnghiệm để lại. Những vần khi nhẹ,thơ mộng âm hưởng:

"... chồng thư cũvới lời em ước hẹn

ôi giờ đây! connước xoáy quay cuồng

ta thương quá, nhớ hômlà quen nọ

lúc hôn nhau, em sẽ nói xatrường..."

(Chồng Thư Cũ)

"... rừng xác xơ thu, ládấu lối mòn

tình yêu ngày cũ

rừng lá di quân, ngày nao cókẻ...

ngọc ngà tình nồng

lộng chí phiêu bồng, tavẫn yêu em

một lòng, một lòng..."

(...Còn Đậu Nhánh Tình)

"... hè đang đến,em nói gì với nắng?

tiếc thương không lárụng trống cành khô?

con ve cũ còn ngân muồi nhãnhạc

em nhớ gì đóaphượng ép trong thơ?..."

(Hè Và Em)

Làm thơ, sống thơ, là"mở toang hoác, từng ngăn ký ức / tình khai nguyên,hốt tỉnh, diện hình / em ẩn náu thần kinh,thớ thịt / dẫu lặng im mà chẳng lặngthinh..." (Ẩn, Hiện Một Đời), vì thinh làmsao được khi dấu vết quê hươngđầy ký ức, thịt da, Tha La xóm đạo củaHà Nguyên Du là Mary, là "ngọc".

"Mary em, ngày xưa khó quên

                        đang cùm gông màem ngoan hiền!

em cho ta một trờinghị lực, một trời thơ mạch

chảy vô biên

...Mary em, người em Tha La

                       ngăn muôn trùng màta không xa

mai ta về lại tìm em,ngọc, mai ta về thăm tìm

em, hoa..."

(Em, Tha La)

Cái nền quá khứ khổhận có thể để lại dấu vết:

"keo tử sinh

chỉ linh vớiThượng đế

phố mọc lên rừng

mảnh mảnh đấuđá

mắt mắt trợnngược

thấu tận bốn ngànnăm

oan hồn xiết rên đâuđây

thời chờ minh quân

hỗn quân"

(Hỗn Quân)

Quá vãng là tối đen RụiĐời "trại a / trại b / a 1, b 4 / còng 8 / còng U/chủ nghĩa, chủ mưu / rụi hết đờitrẻ".

"Tôi con chim gãy cánh lúc tanbầy

tôi con ngựa què chân khi bãonổi..."

(Em Và Lối Thoát)

cho nên

"một khi ta đikhập khểnh

mà trên vai lại quằn!

với những conđường chưa đến

với bao nỗi sầu miênman

với trăm ngàn cănbệnh...

đến từ ngả oankhiên

dẫu thế nào cũng làcuộc đuổi bắt..."

(Dẫu Thế Nào)

Vì đâu mà oan khiên? Phảichăng "bốn ngàn năm hiến / bốn ngàn nămchia / ung cả hạt bí / chết cả dây bầu /bực chiếc thùng rỗng / kêu rách nhỉ / tức tay hèn/ đấm vỡ mấy hệ" (Vỡ Hệ).

Nhà thơ cũng có lúc phẫnnộ, dễ hiểu, vì

"hơn nửa vòng tráiđất xa xôi

ta luôn thấy gần nhưgan tấc

bởi nguồn cộivẫn nằm trong tim chặt

bởi tình yêu như máuthịt xương dạ.. "

(Vẫn Nhớ).

Và nhớ nhiềụ Vìở chốn nữ thần tự do tình đờithế thái vẫn là thường, mà phường tuồngthì không tìm vẫn phải nhìn thấy:

"... thúng úp voi

đao phủ giảngđạo

... phường dở hóa trang

lại sắm tuồng

ấm ớ kịch bản

mê đón gió

tợ múa rốị.."

(Không Còn Gì).

 "Tha hương, ta khách trúbơ phờ" (Nguyệt Lữ), đành thôi Chải TócĐi Em, để còn lo cho mẹ và em ở quê nhà, ai nói thahương là nói mẹ cha mà ký ức buổi nàoDưới Nắng Xế, Ba Ngồi Sàng Gạo thế mà"nay nắng xế ai ngồi sàng gạỏ / chắc thaybóng Má ngồi mong con! / thằng con phóng lãng xa nghìn dặm /sống kiếp tha hương, nhớ mỏi mòn". Cùngcực bi quan, có khi muốn buông xuôi trần thếđể lại Lời Trối ... Về Một DựĐoán. Bởi sống có một mình ên là một kinhnghiệm nhiều khi chết người:"đoạncầu, cầu đoạn chênh vênh / thất thơthất thổ mình ên cõi này!" (Bước Thải).Buồn nhưng không tuyệt vọng, vì còn có những hoàivọng (Trần Tình Khúc), thao thức: "tiếng vỗcạn bầu hay tiếng chuông?!" (TVCB).

"đất hiếm lên trúc

tìm mai đâu trong ngàn câytạp xanh?

truyền thông điệpsương

mầm xanh thấm không quagiọt lời cổ thụ?

thơ hành trình

lãnh nhiệm phép mầu tiêndược..."

(Hé Nụ)

Thì ra thế, và đó làchủ quan của nhà thơ!

Có thể nói nét riêng củathơ Hà Nguyên Du nếu phải so sánh, là ở nhiều hìnhảnh lạ, cố tình, nhiều và lạ, thân quen vớinhà thơ nhưng có thể lạ với ngườiđọc thơ. Anh như người nhiều tâm sựmuốn chia xẻ, nhiều kinh qua muốn ghi lại,gửi gấm, nhiều tâm niệm muốn ghi lạikẻo mất. Em, tình yêu, là vòng nhật nguyệ",vừa luân hồi vừa thường hằng, trong cõi âmdương, như trong tâm cảm,

"đóa hoa nầy trong cõibuồn sinh, diệt

nhân gian nầy đâu thoátđược tử sinh?

em chính là em là vòng nhậtnguyệt

cho ta hơi thở, chonhục cho vinh..."

(Em Là Vòng NhậtNguyệt)

Hay khúc ly tao xưa nào đó màHà Nguyên Du vọng nghe thấy trong những vật củahiện thực trần trụi:

"tình còn xanh lá còn kết hoakhông?

sao như ve ru trên cành ngôđồng

sao như sống xưa ròngđi ngọn nước

em mắt môi buồn khép kínchờ mong

... mình còn mơ ước cònngóng trông nhau

mây mưa tan hoang mây lạigiăng sầu

em như ăn năn khi tìnhlạc bước

anh sống lưu đày hátkhúc ly tao ..." (Khúc Ly Tao).

Hình ảnh đẹp buồnTình Rơi Theo Ánh Tà Huy:

«mặt trời nghiêng, mặttrời xế bóng

em nghe chăng kiếpngười mau chóng?...".

Thơ hôm nay với hìnhảnh quen khói thuốc bay:

"... ta nhớ ngườivương khói thuốc bay

nhớ héo cành xuân, nhớtrắng canh chầy

tâm ta rung mãi theo triều sóng

em hỡi! em nào đâu cóhay?..."

(Nhớ Người Vương Khói ThuốcBay)

Tiềm thức ca dao nơinhững dòng thơ thời Rap:

"qua sông nhớ những nhịp cầu

               qua truông còn thấmnỗi đau nghiệt đời

qua đêm càng quí mặttrời, qua nhân gian thấy

tình người nổi bênh,qua đâu mà chẳng qua em?

qua muôn thách đố quaphiền lụy vây, qua ai qua

chùm vạ lây, qua nonnước khốn qua đày khắc

lao, qua sông nhớ nhữngnhịp cầu, qua thơ qua

với tầm dâu ngặtnghèọ.."

(Ca Dao Tôi)

Rõ thơ là chốn giảitỏa cuồng độ và lượng số củacuộc sống. Trong tình yêu nhục cảm tận cùngmọi ngõ ngách bản năng:

"cứ hôn anh /  hỡi đôi môi thần hỏa/  chạy theo đôi taythủy triều /  cứ mặctình mặc tình / tưởng như con hổ / xé gọn naitơ /  lúc đang đói / thânem như trái chín / tuyệt mộng / anh lữ kháchđường trưa / hổn hển trống bụng /chắc hẳn không sợ phạm giới luật nhưthầy tu! / không nhịn trong cơn đói ngất!

Cứ quấn anh đi /quấn như trăn / bằng những đườngcong giết người / mùi trái cấm như xạhương ngộp

lạc cả hồn phách /đã mở cửa sinh... / cũng chính là cửatử!..." (Hành Trình Điên, Mê)

Thơ sáng tạo từ conchữ, với ngôn ngữ, với một khả nănggiao đối, với những tiềm ẩn, vô ngôn.Tại sao không đùa nghịch với con chữ?

 "ký ức ký niệm

trí nhớ trí tri

lửa lòng lửa bỏng

tử sinh tửquỉ..." (Ký Ức)

"... quấn ta vòng lắmnuộc

?__trặc trẹo ơi chi là...

trệch đường xelửa chạy

trĩu trĩu cánh thê noa!"(Thê Noa)

nghe tình sao trục trặckhông trơn tru tí nào!

"dụng tâm

trác những thỏi nhám

ngón đảm ngón lược

rực tia tình yêu trên váchtối ngục

át tiếng trêu ngươi

nở hoa trên nhánh cành nhân ngãi

tích phật lũy chúa

ngã không ngã"

(Ngã Không Ngã)

Nghịch con chữ nhưtừ đó có thể tìm ra tinh túy cuộc đời, tìm rachất tinh tuyền của sinh, tình,... Như niệm consố để tìm sinh thoát trong bài Niệm Bất Khả!Hay nhưng con dấu toán học áp dụng vào cái tôi haycuộc đời nhiều toan tính:

"tôi không phải là tôi khitôi tôi chưa tới

tôi chỉ là tôi khi tôi tôitới tôi và khi tôi

tới tới tôi là tôi tôiphải xa rời tôi để

nhập cùng với nhữngcái tôi quanh tôi

... thành toi khi thiếu dâu ^ vàhiểu rằng

dấu ^ là như mộtchiếc cầu nối chữ

không đơn thuần làmột dấu mũ một..."

(Phải Thế Không Em?)

Và cứ thế mà đitiếp với những con dấu ' ` + = , v.v.

 Đặc điểm đángkể khác của thơ Hà Nguyên Du là lối hài hòa văntự xưa cũ-hôm nay, tử ngữ-sinh ngữ,tiếng tự điển - tiếng lóng ngoàiđường,... Đây phải chăng cốtđể diễn tả cái sống đây mà phần nàođã quá vãng, cái sống mòn, sống thừa, hay sốngđây mà tưởng đã chết, còn đây mà đãđầy mầm suy thoái như mạ lúa sau cơn lũdài hơn thông lệ, bởi những tàn độc phá pháchcủa thời gian, thiên nhiên và con người ...

Hà Nguyên Du làm chủ cáchsử-dụng từ, vang vọng văn ngôn nhiều khilạ lẫm bên cạnh "bạch thoại" củanhững tiếng rao, nói, những tiếng gọi, chào, tỏtình, ngây thơ có, xúc tích có,... của thường ngày:

"...chờ ai đêm hạ?nước mắt nhung huyền, lỡ trách

tơ duyên, nằm trongnghiệt ngã, lời ru ve hạ, khóc..."

(Đêm Hạ Huyền)

"lại hớt hãi vớinhững không đâu

em vẫn trành tròn nhưnhật nguyệt thực

phàm cõi ấy là tròng..."

(Lại Hớt Hãi)

"... em khuyết dần tôiviên ngọc quý

phận đá đời rongngày dã hoang..."

(Khi Bước Tình Đi Qua).

"...nguyệt tà,dương xế, mây buông

ta, em hát mãi, khúc buồn thiênthụ.."

(Đã Rồi Một Cánh ChimBay).

Người không quen theo phongcách Hà Nguyên Du sẽ lẫn thành "tà dương", haynhư "thôi" cũng hơn một cách, mộtnghĩa:

"...lối ra nào ta tránhđời mai một

hoang đường thôi! thôicách biệt nhân sinh..."

(Em Là Vòng NhậtNguyệt).

Hoặc ba câu "nhớmới đó / giờ xuân ly / nhớ tức tưởi ...",xuân ly chứ không phải phân ly, mà hình như muốn nóiphân ly, chắc có vậy cái nhớ mới thành thơchăng?

Qua lối xuống hàng,chấm câu, kỷ niệm rời rã theo con chữ:

"                     tiếng ca họctrò

                      hướng lênmặt trời

tiếng ca tình người

tiếng yêu nào vơi

                       bước đihọc trò

                       lá međường thơ

mắt xanh vào đời

sáng chân trời mơ"

(Trái Tim Học Trò).

Hoặc dài như nỗinhớ đọa đày: "em đã khóc một chiềuem đã khóc, mưa ngoài kia như thẹn hạt sa mù / gióngoài kia như dừng bước phiêu du, kìa nướcmắt em là trời bão tố..." (Nhan Sắc).

Rõ là thơ tám chữđặt cạnh nhau. Xa hơn là dài dòng kiểu Tân HìnhThức, như lời tỏ không dứt, hay muốnngừng dứt đâu thì cứ dứt ngừng kiểu mệtnghỉ hay khỏi nghỉ theo nhạc Rap! Hãy"đọc" Hạ Nguyên, Gene ĐạiDương, Anh Biết, Em Yêu Dấu 2,... thơ như mộtlối thở dưỡng sinh! Câu có thể 8 chữnhưng vắt dòng bất kể; vần không ngừngở các dấu ngừng hay xuống hàng mà vắt dòng,muốn ngừng thì ngừng trong tâm thức, giữa câu,giữa đàng!

Nhà thơ còn dùng nhiềuthể loại trong cùng một bài bản, thay đổichăng theo tình tự?

"...chờ ai đêm hạ?nước mắt nhung huyền, lỡ trách

tơ duyên, nằm trongnghiệt ngã, lời ru ve hạ, khóc

ánh trăng nguyền, thứctrắng đêm đen, tàn phái

bướm hoa

hạ huyền ơi hỡi!

nắng thêu ngàn vây

héo khô cành ta

em lá rơiđầỵ..."

(Đêm Hạ Huyền)

Hà Nguyên Du thử nghiệmnhiều thể loại thi ca, làm mới, khác thơmới, tự do hóa thơ đã tự do, và ở mỗithể loại nhà thơ lại thử nghiệm cung cáchmới, vận dụng khác con chữ, thế chữthường dùng ,... Nhạc tính luôn hiện diện, lúcnhịp nhàng như ca dao, khi dài hơi như bà ca vọngcổ, lúc lại đầy điệu lòng thời đai... Thơ Hà Nguyên Du phải đọc lên mới thấycái hay, cái thú, cái thơ, cái tiềm ẩn của âm lời,chữ nghĩa! Những bài như Cho Tôi Bài Tango, Cho Em Bài Sonnet,Đêm Hạ Huyền,... phải ngân vang mới cảmđược những tiềm ẩn của mộtnỗi lòng, của những gạch chữ, nốtchấm!

Như Hà Nguyên Du từng tâmsự ở đầu tập thơ, sau ba mươinăm ít nhiều vui với thơ, nay anh trở lạitận tình. Và tận tình làm mới, khác. Như mộttổng hợp. Với một hình thức "hộinhập" với xã hội châu Mỹ của Tân HìnhThức. Từ khi có con người, vẫn có nhữngngười luôn tìm kiếm ý nghĩa của ngôn từ,khoác cho chúng nét riêng mỗi thời. Khuynh hướng,trường phái từ đó nảy sinh! Trường phái,tìm kiếm nào rồi cũng chỉ là phương tiệncủa thi ca, tệ cũng là bài bản gia chánh, thêmthắt vị mới cho món thường dùng. Nhưng nétthơ và nét riêng của một nhà thơ không thểchỉ là gia chánh, mà phải vượt lên chạmđến thi tính, nguồn thơ! Ở lắngđọng, nằm ở chiều sâu, ở con chữ tìnhcờ gợi đến, ở ẩn dụ khéo tay!

Trong tập thơ thứ hainày của Hà Nguyên Du, phần thử nghiệm theo thi cathời Hậu hiện-đại, thời Tân hình-thức,hypertext,... hãy còn sớm để đánh giá, nhưngngười đọc khó tính không quen vẫn có thểcảm được qua một số hình ảnh, vầnđiệu và nội dung thơ. Ở những bài thật"mới" có thể "chấp nhận"(!), HàNguyên Du đã để lại cái gì khác hơn là mộtthể loại chủ trì hình thức. Hai hay ba phần cònlại, Hà Nguyên Du đã không làm thất vọngngười sính thơ với những đặc sắccủa riêng anh. Nghịch thường thay, ở nhữngtrúc trắc chữ dùng, bất ngờ hình ảnh haynhịp trật, không đợi chờ,... lại lànhững nét riêng thành công, như một loại"nhạc tính", "âm điệu" rất thơ,rất Hà Nguyên Du!

Đây đó có nhữnglời nhẹ như ca dao, đam mê như tìnhđầu,... nhưng thơ Hà Nguyên Du không phải làlối mòn đã quen, mà chính là những con đườngxa lộ đã mở, cứ mãi xuôi chảy, không ngừng,dù phải trục trặc tâm hồn, bối rốicủa đời hội nhập! Thi ca đốiđầu với ngôn từ và thực tại!

 

Nguyễn Vy Khanh

7-11-2000