Đọc truyện Nôm Hứa Sử (Tỉnh Mê Một Cõi)

Nguyễn Văn Sâm

1. Tôi mất hơn 7 năm từ khi có được bản Nôm Hứa Sử đến khi in xong sách nầy. Lý do có nhiều. Ngoài sự khó khăn trong chuyện phiên âm do sách xưa chữ nghĩa thâm thúy, từ ngữ chuyên đạo ẩn tàng nhiều tư tưởng cũng như nghĩa cổ mà tôi càng đọc, càng chú giải càng thấy rằng cần phải suy nghĩ thêm, chú giải thêm để giúp cho người đọc dễ hiểu còn có sự băn khoăn của tôi về sách Toàn Tập Toàn Nhật Quang Đàicủa thầy Lê Mạnh Thát, sách đã in hai lần, lần trước vào năm 1979, lần sau gần đây, năm 2005. Lần nào thầy Lê Mạnh Thát cũng đều xác quyết Hứa Sử Truyện Vãn là tác phẩm của Hòa Thượng Toàn Nhật. Tôi in sách nầy mà không nói gì đến tên tác giả Toàn Nhật coi có dị lắm không?

Rồi đầu năm ngoái (2014) tôi hân hạnh gặp thầy Lê MạnhThát, có nói về suy nghĩ của mình, thầy cười thông cảm và khuyến khích tôi cứ tự nhiên. Mỗi người có lý giải riêng, cách đọc và hiểu vấn đề riêng, người đọc được biết thêm điều gì đó cũng là điều tốt hơn là sách làm dang dở rồi bỏ xó cho bụi bám. Hơn nữa, cung cấp cho đời thêm một bản Nôm tốt cũng là có công và cần thiết cho việc bão tồn văn hóa. Người xưa tốn thiệt nhiều thời gian mới sao chép được một bản Nôm, nay ta in một lần vài trăm bản lại có phiên âm và chú giải sao lại không in? Tuy vậy tôi không thể đi vào các chi tiết Phật học hay triết lý Phật giáo vì khả năng hạn hẹp của mình về vấn đề nầy, chỉ có thể căn cứ trên bản văn Nôm và suy nghĩ về những cách đọc của người đi trước mà làm chuyện phiên âm lại và chú giải theo đường hướng soi sáng bản văn về mặt văn học và ngôn ngữ. côgn việc nhằm hi vọng giúp cho người đọc hiểu hơn, hiểu đúng phần nào về nội dung tác phẩm. Các hữu kỳ phận! Biết đến đâu thưa đến đó!

Hứa Sử Truyện đích thực là truyện của một người tỉnh thức khi sống trong Cõi Tỉnh Mê của trần đời. Bấu víu vào đời, tranh danh đoạt lợi, sống theo bản năng con người là sống Kiếp Mê Muội của đời chúng sinh huyễn hoại. Thức tỉnh để giủ bỏ, dứt khoát với những hệ lụy, bước vào đường hạnh tu là sống Đời Tỉnh Thức của đạt giả thường tồn. Hứa Sử đã sống thức tỉnh. Toàn văn là cuộc đời của ông cho nên tôi lấy ý toàn văn mà gọi truyện Hứa Sử là Tỉnh Mê Một Cõi. Cõi đời đồng thời là Cõi tu tùy theo lối sống của từng người. Cõi đời của chúng sinh với những ham muốn, tranh giành, phiền muộn… để rồi sẽ tiếp tục những kiếp sau kiếp sau. Cõi tu của thiểu số chúng sanh giác ngộ lẽ đời lẽ đạo để dứt bỏ những ràng buộc và ngăn trở của đời để bước vào đời tu hành mong dứt được sự kiện kiếp sau kiếp sau.

Tác phẩm hơi dài vì tác giả muốn đưa vào đấy hầu hết những vấn đề căn bản của vấn đề tu hành: Tu ở thành thị hay lâm tuyền, chốn nào có lợi cho sự tu, người tu? Trong khi tu tập có thể gặp những ma chướng, phiền nào, đàm tiếu, thái độ của người tu hành phải như thế nào? Thầy dạy đạo của mình lỡ sa đà, vướng vào vòng tục lụy, thái độ mình là đệ tử hành sử sao cho phải đạo? Nước nhà có loạn, mình có tài an bang, nên cầm quân dẹp giặc chăng, nếu cầm quân thì phải làm sao giới hạn sự sát sanh đến tối thiểu? Muốn đi tu mà vợ con cản trở, đồng liêu thuộc hạ khuyên bảo nên ở lại giúp nước nhà thì mình phải làm gì? Còn nhiều vấn đề thực tế khác mà người đọc với căn cơ và kiên định sẽ thấy và vạch con đường theo để thực hành một đời sống Tỉnh Thức.

Sách được một vị chân tu nào đó viết ra trên giấy để lại trong chùa nào đó, Hòa Thượng Toàn Nhật với hạnh ngộ được đọc, giác ngộ bèn chấp bút, kêu gọi khắc in. Không biết Ngài đã thêm vào bao nhiêu tư tưởng của mình, sửa biết bao câu văn trong nguyên bản, nhưng chắc chắn rằng những gì tác giả đi trước nói đã ngài được giữ ít nhất là ở phần cốt lõi. Vì vậy tôi chủ trương tác phẩm nầy thuộc về công đức chung của các thiền sư hơn là riêng một vị . Điều nầy cũng không có gì sai trái vì thật ra tác phẩm văn chương và nhất là tác phẩm tôn giáo của Việt Nam hầu hết đều vô danh. Vô danh do nhiều lý do, trong đó có sự cố tình của tác giả gạt bỏ tên mình ra khỏi tác phẩm vì coi cái tên của mình vốn không quan trọng. Từ sự vô danh đó, tác phẩm được người nầy người nọ thêm thắc, sửa đổi, khiến cho tác phẩm của người Việt là công trình của đám đông không tên nhiều hơn là thuộc về một cá nhân cụ thể. Đối với một nhà sư, sự vô danh trong việc trước tác còn quan trọng hơn vì mang ý nghĩa triết lý. Kiếp người là một sát na tạm bợ, là đời sống của sương sa, sấm chớp. Lạc vào cõi trần thế nầy một đời chỉ là vài giây phút so sánh với muôn ngàn kiếp của cái chơn linh, chơn giác nên sẽ ra đi không lưu ảnh, ở không nhất thiết lưu hình, trước tác không cần lưu danh.

Quan niệm vô danh về tác phẩm của mình nằm trong quan niệm lớn hơn mà quyển Tỉnh Mê Một Cõi nầy có nói, dầu chỉ phớt qua, khi một vị cao tăng sắp tịch. Thầy nói mình chết chỉ là từ bỏ cái thân hư huyễn, cái áo lớp ngoài của một đời nầy, trong khi đó cái tánh chơn giác, cái linh hồn, cái làm nên chuỗi kiếp kiếp của con người thì bao giờ vẫn còn:

         Thầy nay tuy bỏ huyễn khu (thân xác ảo huyễn),
Một tánh chơn giác muôn thu như còn.

Đây là tư tưởng chánh của quyển sách, có thể không mới – tìm một tư tưởng mới trong đạo Phật thiệt quá khó - nhưng quan trọng khi nằm trong một tác phẩm văn học phổ biến tới mọi từng lớp đại chúng, một quyển truyện, chớ không phải một quyển kinh, vốn giới hạn trong sự giao truyền, chuyển tải tư tưởng.

2. Có nhiều chứng cớ để xác định rằng Tỉnh Mê Một Cõisản phẩm của thế kỷ 18, dầu là bản khắc chúng ta có được đề năm Canh Thìn (nhiều xác suất là 1880), chẳng hạn như:

(1) Thỉnh thoảng có xen kẻ những câu thơ thất ngôn:

         Khen rằng phước đức có dư,
Cha mẹ biết đạo con tu thêm mầu,
    Thầy chớ rầu mà lòng bối rối,
    Cha mẹ đà về cõi Thiên tiên

hay:

     Tạo chùa chiền, làm cầu, thí giếng,
    Cùng đắp đường tích thiện phóng sanh.

hoặc:

     Táng thầy rồi ra vô thơ thẩn,
    Lòng băn khoăn ghe thảm sầu tây.

hay:

     Giác tánh không hình thành chánh quả,
    Cõi Diêm vương khó quá người ô!

những câu thơ thất ngôn là biến thái thể của thể loại văn chương đời Lý Trần, của Tô Công Phụng Sứ, của thơ Nguyễn Biểu, thơ Vương Tường, thơ Bạch Viên..

(2) hiện diện nhiều từ xưa và cách dùng xưa,

Chẳng hạn như ròng thiền tỉnh tu (tu thiền), thiền song (ở chùa), năn nỉ (bàn bạc, thảo luận), bỏ rãy (bỏ lúng, bỏ phế), lời thế bia bài (miệng đời nói xấu), chang chang (quá nhiều), trối thây (kệ họ), đè (đoán chừng, phỏng đoán), tráo trở (thay đổi), khoản thầy (cách mặt thầy), bàn luận vừa thôi (suy nghĩ xong), dong xá (tha thứ), người vạy vò (người không ngay thẳng), bộ nhộn (lộn xộn), khẵm (đầy , no), dón lại (tóm lại), toa (toan tính, suy nghĩ), chưa siêu (chưa hiểu rõ, chưa được thuyết phục), chầu (lúc), ngục rạc (ngục tù), mồi ngon (món ăn ngon),

(3) cách nói xưa và nhứt là những từ đơnchỉ dùng ở tác phẩm trước thế kỷ 19, sau đó thì đã trở thành từ kép.

Đặng chi (kiếm được món gì), tuông pha (công kích vô tội vạ), tưởng đi viếng thầy (chỉ nghĩ đến chuyện đi thăm thầy), chấp trước (để ý, lấy làm điều), vắng chầy (vắng mặt lâu), thế đi chẳng chầy (coi bộ chết không lâu), lòng nỡ yên đâu (không thể làm lơ), bỏ trong Phật pháp (bỏ Phật pháp), việc trong tội phước (việc tội phước), chân bước dần dà (chân lần từng bước chậm), cậy (nhờ), làm đôi bạn lành (làm bạn thân), tay nầy (chính ta), nghĩ nào (hơi nào), phá của (bỏ tiền ra), nắm tay (chắp tay), đặng thời (gặp may), thế thì (người đời), do sự(lý do), lành nhơn (người lành, người hiền), buông tình (thả lỏng tình cảm, để bị lôi cuốn vào chuyện xấu), trái lòng(bất bình), lên xuống đời đời (luân hồi).

(4) Những bài văn tế(trang 44), những bài thơ Đường (trang 82, 138) chen lẫn vào trong bản văn cũng là vết tích của tác phẩm xưa hơn Đoạn Trường Tân Thanh, Phan Trần, Lục Vân Tiên để kéo về cùng thời gian với sự xuất hiện của Hoài Nam Khúc của Tư Dung Vãn , của Ai Tư Vãn.

(5) Những câu thơ lục bát có vần ở chữ thứ tư cũng là bằng chứng của sự ra đời sớm chứ không phải là sự non tay nghề của tác giả.

Chẳng hạn:

         Thương thầy khổ hạnh núi non,
Bây giờ chẳng còn lên xuống viếng thăm.

hay:

         Đến khi về đã hầu gần,
Vua sai hai tán ra thành tiếp nghinh
.

hoặc:

         Tội kia biết đáng mấy thây,
Nhưng mà ngày rày nó đã đầu ta.

hay:

         Triệu Tân nước mắt rung tròng,
Cúi trước sân rồng vạn tuế tung hô
….

3. Một điều đáng nói nữa là tác phẩm nầy chắn chắn là công trình tim óc và chấp bút của những người Miền Nam với nhiều từ ngữ của vùng Nam Kỳ Lục Tỉnh được sử dụng nhuần nhuyễn, chỉ có mặt trong tự vị của Huình Tịnh Của mà những tác giả Bắc, Trung trước đó hay sau đó chưa có lần nào dùng.

Một vài từ chắc chắn là đặc trưng của Bắc, Trung (nghỉ, mô) có mặt ít oi trong tác phẩm chỉ là vết tích còn lại của sự di dân Nam tiến thời các chúa nhà Nguyễn, chưa biến mất khi định vị trong Nam vì thời gian còn quá gần, cách nói địa phương chưa có dịp tác động mạnh mẽ. Những chứng cứ nầy chúng tôi thỉnh thoảng nhận xét ở phần sơ chú.

4. Một điểm đặc biệt là tư tưởng trong nầy pha trộn giữa niềm tin Phật giáo, kết hợp với những điều dạy căn bản của đạo Nho. chẳng hạn như Đề cao vai trò và vị thế của người thầy:

         Lịch sử lắm lúc phũ phàng
Nhưng nêu cái thật, cho đàn hậu sinh.
        Vua bèn phán hỏi lời nầy,
Khỏi tội vì thầy bây có biết chăng?
        Phải thầy mà chẳng chánh nhơn,
Thời đã khinh báng Phật, tăng tung hoành..

Con người tu hành cũng cần có căn duyên mới được gặp thầy xứng đáng. Nếu không gặp thầy ngu mê, không biết dạy kinh kệ, lẽ đạo mà dạy những điều tầm thường như thắp nhang đèn, lạy Phật, bói toán thì mình tu vô ích:

         Không duyên gặp thấy vô minh,
Những ông trá huyễn tu hành, ăn chơi,
        Chẳng biết điều chi dạy người,
Cứ môn lạy Phật, hôm mai hương đèn,
        Vào làm bổn đạo cầu duyên,
Những ông làm vậy mình nên ích gì
.

Chẳng hạn như ý niệm ngũ thườngđượcv đưa ra như là căn bản của sự sống tốt đẹp của con người mà không có nó thì là sai quấy lớn:

         Năm hằng chẳng giữ, theo về súc sanh,

Giải thích căn nguyên của tư tưởng nầy tôi cho rằng đó là sự pha trộn giữa quan niệm tôn trọng Phật, Pháp, Tăng với quan niệm đề cao Quân, , Phụ. Thầy dạy đạo của mình trên căn bản là một vị tăng cộng với vai trò của người thầy khai hóa cho mình, không thể vì bất kỳ lý do nào mà từ bỏ, phỉ báng tăng, khi tăng đó đã là thầy mình.

Ngoài ra ảnh hưởng của vài tư tưởng căn bản của Nho giáo cũng bàng bạc trong tác phẩm như nhơn, nghĩa, lễ, trí, tín, như tình bằng hữu chỉ ư tín, như thờ vua, như vị quốc, như đề cao tứ ân.

Quan trọng trong tư tưởng của tác phẩm là nói rõ ràng sự ly gia cát ái . Con người muốn tu thì phải dứt khoát dứt bỏ tình, gia đình, tình chồng vợ, nghĩa vua tôi. Dứt bỏ không phải buông rơi vô tình mà để qua một bên tình cảm nầy hầu tinh chuyên lo chuyện tu hành. Hứa Sử khi còn trẻ đã để tình con cha qua một bên mà theo thấy đi tu. Ông Đổng Vân khi làm quan đã từ quan để chuyện thờ vua qua một bên (sau nầy có chuyện thì vẫn giúp vua) cũng như để tình vợ chồng, tình phụ tử qua bên cạnh mà dứt khoát đi tu, ông nói Cũng vì đôi chữ ái ân, Cho nên lúng túng lòng trần khó ra . Ông biện luận rằng mình đi tu trước là giải thoát cho mình nhưng cũng là giải thoát cho vợ con. Vậy là trên căn bản người đi tu cũng còn có nghĩa phu thê, nhưng nay đã chuyển hóa dưới một hình thức khác hơn do ảnh hưởng của Phật giáo.

Một đoạn dài của tác phẩm nầy là sự thưởng phạt của Diêm vương và sự đối thoại, giảng dạy của ông ta đối với Hứa Sử mục đích là sẽ qua Hứa Sử những hành vi ăn ở cho phải đạo như hành thiện, tránh ác của con người sẽ được tuân thủ vì con người sợ những sự trừng phạt sau khi chết.

Ý niệm thưởng phạt hồn con người sau khi chết là sự đẩy mạnh tư tưởng nhân quả. Triết lý Phật giáo giải thích và đề cao lý nhân quả, nhưng Phật giáo bình dân như Tỉnh Mê Một Cõi, như Hồi Dương Nhơn Quả dùng quan niệm nhân quả để đưa tới sự thưởng phạt của Âm Ty hầu tạo cho con người ý niệm: Tham Thiên đường phải giữ lòng lành, sợ địa ngục nên chừa thói dữ . Lòng tham, ý sợ đó không có gì đáng chê trách khi con người hướng thiện và chừa sự tàn ác…

5. Đọc Tỉnh Mê Một Cõi, tôi đọc chầm chậm, suy nghĩ để thấm thía ý lời, chắc chắn rằng độc giả cũng vậy. Một số câu (1) vì từ ngữ xa xưa, (2) vì người viết dịch thẳngcác từ Hán Việt sang từ Nôm để đến được số đông Phật tử hơn, (3) vì vấn đề không nằm trong bình diện đời thường ta quen thuộc nên hơi khó hiểu, nhưng nếu chịu khó suy nghĩ thì cũng vỡ lẽ.

Sách được ra đời nhờ công lớn của một học giả kiệt xuất, Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, Giáo Sư đồng ý viết một bài giới thiệu dài giải quyết vấn đề văn học căn bản là thời đại xuất hiện của truyện thơ lục bát trong đó có Hứa Sử Truyện Vãn nầy, lại khuyến khích tôi nhiều lần: ‘Xin đừng chú ý đến sự tốn kém khi in một quyển sách khó lấy lại vốn mà hãy vui khi thấy một quyển sách tốt được ra đời. Hơn trăm năm trước ông Trương Vĩnh Ký đã làm việc ích lợi nầy.’

Sự ủng hộ tinh thần và vật chất của người đồng cảm cũng nhiều, không thể nêu tên ra hết.

Dĩ nhiên người phiên âm từ bản Nôm ra quốc ngữ trước đây cũng đáng được trân trọng, đó là cư sĩ Tịnh Quan Võ Văn Liễng (1930) và thầy Lê Mạnh Thát (1979); quí nhơn Nguyễn Văn Thoa nhượng lại tôi bản Nôm Giác Viên nầy cũng là người được tôi ngưỡng mộ và thấy rằng mình cần ghi lại đây lời cám ơn chơn thành. Không thế, quyển Tỉnh Mê Một Cõinầy không có dịp chào đời và riêng mình, tôi đã chẳng có cơ duyên nhìn lại một vài vấn đề chữ Nôm và hạnh tu tập theo Phật đạo. Âu cũng là cái duyên!

Riêng lần in nầy tôi chưa thật sự vừa ý, có thể nói là hơi thẹn, vì phần tự vựng chưa làm được, một bảng chữ Nôm liệt kê những chữ mà hai quyển Tự điển Nôm quan trọng của Viện Việt Học, CA (2009) và Nguyễn Quang Hồng, HN (2014) chưa kịp vét cũng chưa thực hiện được và nhất là những câu/chữ cần chú giải còn phải thêm nhiều để tác phẩm được hiểu chính xác hơn, sự chuyển tải tư tưởng của tác phẩm đến người đọc được thông suốt hơn.

Tiếc quá! Hi vọng có cơ duyên để giải quyết những bất cập đó trong thời gian gần trong tương lai.


‘Cung cấp cho đời thêm một bản Nôm cũng là có công và cần thiết…’ LMT (Ảnh: Lữ Kiều Thân Trọng Minh).