“Tạp chí văn nghệ” Sáng Tạo ra đời trong hoàn cảnh đấu tranh chính-trị mới của miền Nam muốn bảo vệ phần đất quốc-gia và phát triển đất nước theo chiều hướng dân-chủ tự do, sau khi đấtnước đã bị phân ranh ở vĩ tuyến XVIIvớihiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954. Số 1 ra tháng 10-1956 và kéo dài được 31 số, ngưng từ tháng 9-1959, đến tháng 7-1960 tiếp tục bộ mới , trở thành “diễn đàn văn học nghệ thuật hôm nay”, nhưng cũng chỉ ra thêm được 7 số, số cuối ra tháng 9 năm 1961. Trước vận hội mới đó của miền Nam, quần chúng độc giả nhất là giới trẻ và sinh hoạt văn- nghệ, chờ đợi những cái mới trong lãnh vực văn hóa, văn-nghệ, Sáng Tạo do đó đã được nồng nhiệt đón nhận. Về tài chánh xuất-bản thì tạp-chí do viện trợ Hoa-kỳ trợ cấp qua William Tucker - giám đốc cơ quan viện trợ USIS - nên khi hết nguồn tài trợ đã góp phần đưa đến việc đình bản. Về nhânsự,có thể xem Sáng Tạo hình thànhtừ hai ấn phẩm trước đó: Lửa Việt và Người Việt. Lửa Việt là đặcsan của Hội Sinh viên Đạihọc Hà-Nội vừa di cư vào miền Nam, Trần Thanh Hiệp chủ-nhiệm, Nguyễn Sỹ Tế chủ-bút, nhóm chủ trương ngoài hai vị còn cóThanh Tâm Tuyền và cộng tác có Doãn Quốc Sỹ,...; chỉ ra được vài số và ngưng xuất-bản đầu năm1955. Còn Người Việt là một tuần báo văn-nghệ xưng là “diễn đàn tiền phong đấu tranh văn-hóa”, Doãn Quốc Sỹ làm chủ-nhiệm/ trưởng nhóm, cũng sống khôngthọ, đình bản vào cuối năm 1955, gồm những cây bút chính là:Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Quách Thoại và Mai Thảo, và ngoài ra còn là nơi xuất hiện thơ văn đầu tay của Nguyên Sa,Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, v.v.
Trong số ra mắt tạp chí Sáng Tạo, MaiThảo đã phần nào chủ quan nói văn nghệ từ thủ đô Hà Nội đã chuyển vào thủ đô văn hóa Sài Gòn! Nhưng khẳng định của Mai Thảo là một diễn dịch kháccủa một cơ cấu xã hội và chính trị bị-động, phải đối phó tức thời với kẻ thù cộng sản. Chính quyền miền Nam nhắm tổ chức như cơ cấu của kẻ thù, đòi hỏi hy sinh và một lòng, một mục đích chính-trị và văn-hóa, với những phương tiện tương đương (mục-đích, lý tưởng đó có được chia xẻ và theo đuổi đến cùng không dĩ nhiên lại là chuyện khác!). Các tạp chí quân đội, tâm-lýchiến và cả những tạp-chícủa cái gọi là nền văn-nghệ hiện-đại như Sáng Tạo, Hiện Đại, Thế Kỷ Hai Mươi, .. và BáchKhoa, Quê-Hương, Sáng Dội MiềnNam , v.v... cũng không đi ra ngoàiquỹđạo đó! Sáng Tạo ra đờivớicái gọi là ý thứcvăn nghệ mới và làmmớivăn học cho thời đó, ngay những số đầu đã cho biết muốn làm đại diện cho “một nền nghệ thuật mới” được nhóm chủ trương gọi là “nghệ thuật hômnay”.
Sáng Tạo không phải là một văn đàn hay bút nhóm với chủ trương và hoạt động khắng khít như Tự Lực Văn Đoàn hoặc nhóm Hàn Thuyên của thời tiền chiến và sau đó là nhóm Quan Điểm,
nhưng ít ra đã đi chung từ tờ Người Việt sang Sáng Tạo và có thể nói tỏ ra có chung thái độ và quan
điểmtrong bốncuộc thảo luận “Nhìn lại văn-nghệ tiền chiến ở Việt-Nam”, “Ngôn-ngữ mớitrong hội họa”, “Nhân-vật trong tiểu-thuyết” và “Nói chuyện về thơ bây giờ”, sau xuất-bản thành tập ThảoLuận [1]. Họ là Cung Trầm Tưởng, Doãn Quốc Sỹ, Duy Thanh, Huỳnh Văn Phẩm, Lê Huy Oanh, Mai Thảo, Ngọc Dũng, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Thái Tuấn, Tô ThùyYênvà Trần Thanh Hiệp.
MaiThảo dứt khoát là linh hồn của nhóm Sáng Tạo, nhưng hình như Trần Thanh Hiệp ra vẻ là“chỉ đạo”, người từng tuyên bố “Chúng ta hình thành văn-nghệ mới” và chủ động trong các Thảo Luận của nhóm và là tác-giả tập tiểu luận Tiếp Nối xuất-bản cùng năm 1965. Nói đến “nhóm Sáng Tạo” người ta thường nghĩ đến nhiều người: MaiThảo “đầu đàn” với văn nói chung mới và tân-cảihình thức, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên và Quách Thoại với thơ tự do và nội-dung mới, Nguyên Sa với thơ ca tụng tình yêu tân kỳ, Cung TrầmTưởng, Sao Trên Rừng (Nguyễn Đức Sơn) và Trần Tuấn Kiệt làm mới thơ lục bát,Trần Bích Lan (Nguyên Sa), Trần Thanh Hiệp và Nguyễn Văn Trung(Hoàng Thái Linh), người lập thuyết, người giới thiệu triết lý thờithượng của Âu châu. Ngoài ra còn có Doãn Quốc Sỹ, Thảo Trường, Viên Linh, Người Sông Thương (Nguyễn Sỹ Tế), Trần Dạ Từ, Trần Thy Nhã Ca, Vĩnh Lộc, Thạch Chương (Cung Tiến), Vương Tân (Hồ Nam), HoàngAnhTuấn, Mai TrungTĩnh, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Mặc Đỗ, Duy Thanh, Lữ Hồ, Trần Lê Nguyễn, CungTrầmTưởng, Thạch Trân (Đào Trung Đạo), Tuấn Huy, Duy Năng, Diên Nghị,... - người cộng tác thườngxuyên, người một hai bài. Các văn nghệ sĩ hợp tác khác như Tạ Tỵ, Đinh Hùng, Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nguyên Sa, Viên Linh, Dương Nghiễm Mậu, Thảo Trường, Thanh Nam, Lan Đình, Lý Hoàng Phong, v.v... có người sau tách riêng làm văn nghệ hoặc không tiếp tục chủ trươngcủa Sáng Tạo nữa. Riêng Nguyên Sa đã nhiều lần công khai không muốn bị gán nhãn “nhóm Sáng Tạo”(Trong bài “LàmBáo” mở đầu số ra mắt tháng1-1975 của tờ Nhà Văn, là tạp chí văn học cuốicùng Nguyên Sađãđứng chủtrương cùng với Trần Dạ Từ, Nguyên Sa đã nhắc lại sựrạnnứt đó khi đề caoMai Thảo đã quyết tâm đứng về phía cái mới, “quyết tâm làm cho MaiThảo cố giữ mãi cho đến lúckhông thể giữ được sự chung đụng của những cá tính không thể đứng gần nhau” ( tr. 7) [2]). Về phần nhà xuất-bản mang danh Sáng Tạo chỉ thật sự xuất-bản tập truyện ngắn Tháng Giêng Cỏ Non của Mai Thảo năm 1956, về sau Doãn Quốc Sỹ lậpnhà xuất-bản cùng tênnhưng là của họ Doãn và để insách của ông và bạn hữu mà phần lớn từ tạp-chí Sáng Tạo.
*
Đốivới văn-học sử, Sáng Tạo đã góp phần làm mới văn học về văn cũng như thơ, về hìnhthức, thể cách cũng như nội dung.
Về thơ, Thanh Tâm Tuyền cổ võ thơ Tự do, không vần, bất ngờ về ý và chữ dùng, xuất bản Tôi Không Còn Cô Độc (1956) và Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy (1964) - ông đã viết bài cổ võ(“Đặt đúng vấn đề thơ tự do”) và sáng-tácThơTự Do trước Sáng Tạo, từ năm 1955 trên báo NgườiViệt. Thơ Thanh Tâm Tuyền dùng ngôn ngữ để phá hủy ngôn ngữ, dùng ngôn-từ chính-trị để tỏ bày tâm tình nổi loạn, từ ngôn-ngữ đời thường nhảy vào nghệ-thuật đen, siêu thực, phó mặcmạch thơ, nhạc điệu cũng như ngôn ngữ thơ, để ngôn từ tự do trôi chảynhư sự vật vô tri vô nghĩa từ nguyênthủy và như không khí chính-trị tự do mới có được sau những năm dài chiến-tranh. Mặt khác, thiênchức hoặc mục-đích của thica cũng được Thanh Tâm Tuyền định nghĩa khi viết Tựa cho tập thơ Vào Đời (1966) của Trần Thanh Hiệp: “Thơ là mở cho nhìn thấy …Trong đời người rối mù hỗn độn, tan nátvàđiên khùng che khuất mọi viễntượng, trong lịch-sử khắc nghiệt, tàn nhẫn quay cuồng như cửa ngỏ hư vô, mở cho nhìn thấy những thựctại còn lánh mặt,bịchôn vùi, những điều khả hữu của đờingười, của lịch-sử. Mở và nhìn thấy là tác động của trí tuệ – một trí tuệ tiến về mọi chiều đến tận cùng các giới hạn, một trí tuệ tự tạo tự do và muốn thực tại cũng tự do. Thơ chính là trí tuệ thiên nhiên lang thang tìm kiếm sự thật và hủy diệt sự thật – trí tuệ nảy sinh từ thực tại chia lìa, muốn đi thoát ôm theo thực tại vào vùng trời nào, nhưng chúng ta, chúng ta nhìn thấy đượcgì,phải nhìn thấy được gì không? (…) Phải chăng trí tuệ củachúng ta đã chỉ còn là trí nhớ ray rứt về cuộchành trìnhkhông thực hiện nổi – trí nhớ bi thảm đui mù -? Và, thơcủa chúng ta như con chim cất cánh bay caotrong đêm giá cô đơn tìm về mặt trời hay chỉ là con chim đã sập bẫy kêu những tiếng mê sảng ?...”. Tức, Thanh Tâm Tuyền muốn đi xa hơn nữa: “thơ hôm nay không dừng lại ở thơ phá thể, thơ hôm nay là thơ tự do” mà cao điểm sẽ là thơ văn xuôi [ 3] - trong khi với Nguyên Sa, thơ tự do chỉ là thơ phá thể [4]. Cổ võ thơ Tự Do và khi tưởng đã thành công gây tiếng vang thuận tiện, nhất là với những người làm thơ mới ra đời, nhóm Sáng Tạo bèn đi xa hơn, phủ nhận giá trị thơ văn tiền chiếnvàkháng chiến. Mai Thảo và nhóm bạn của ông rất dị ứng với quá khứ! Nhiều nhóm văn nghệ sĩ đã lên tiếng phản đối, nhất là ở Huế – từ tranh luận thơ tự do xuất phát ca dao và/hoặcthơ tượng trưng tiềnchiến (rốt lại mang chấtchính-trị quốc-cộng!) của tạp-chí Sinh Lực (từ số 8, 1-2-1957), rồi tuầnbáo Tầm Nguyên gọi là “thơ tự Ro” (rồi lên tiếng của Phan Lạc Tuyên, Mạc Ly Châu...),... Bình- Nguyên Lộc trên tuầnbáo Vui Sống chấp nhận thơ tự do không vần nhưng phải sáng-tạo ra nhạc điệumới. Trong các tranh luận, phê phán, đúng là chính-trị đã nhập vào thơ tự do, nào thơ tự do xa lìa quần chúng, thực tại đất nước, ngoạilai,mất gốc (dù Thanh Tâm Tuyền cứ cho rằng thơ của ông xuất phát từ ca dao!). Ngoài “nhóm`thân Cộng” Vũ Hạnh, Lữ Phương thìThếPhong là người có nhữngphê-bình nặng nề: “Thanh Tâm Tuyền, của “Tôi không còn cô độc” là một thứ Xuân Sanh phiêu lưu ông chủ đích, chưa có khả năng để làm một thi sĩ có khám phá mới. Những bài thơ chơi chơi lúc lắc như “Nhịp BaTình Cờ” chỉ là lối chơi có nghệ-thuật của một thanh niên bế tắc không muốn lao đầu vào tình-yêu như mọi người khác; và muốn có cái gì mới hơn, muốn lao đầu vào một chương trình khác người mà chưa dò khả năng của mình có hay không?...” (5). Ngay trong cuộc thảo luận“Nói chuyện về thơ bây giờ” của nhóm Sáng Tạo, Lê Huy Oanh đã bất mãn, chán nản thơ tự do mà ông gọi là “lập dị và hình-thức không đạt tới mức truyền cảm”, thì Tô ThùyYênđã trả lời bằng lập luận “Người làmnghệ-thuật là người lập dị được một cách tự nhiên. Có lẽ sự tự nhiên nầy đã không cho tôi nhìn thấy tôi lập dị nếu quả có thực như vậy”. Nhưng dù gì thì Thanh Tâm Tuyền rồi NguyênSa đã khai pháo mở đường cho dòng thơ sẽ được gọi là ThơTự Do – trong khi Thơ Tự Do “nguyên thủy” là phản ứng lại Thơ Mới và thơ thời tiền chiến, một vận động đã bắt nguồn từ thời kháng chiến, với Hữu Loan và Màu Tím Hoa Sim, Nguyễn Đình Thi, v.v…
Thơlục bát đãđược cách tân với một số nhà thơ thời Thơ Mới, nay trên tạp chí Sáng Tạo, thể- loại thi ca này được tiếp tục hiện đại hóa với ngôn ngữ tân kỳ, hình ảnh mới hơn, bất ngờ, cũng như trong cách dùng chữ, ngắt câu. Khởi xướng bởi Cung Trầm Tưởng, tiếp đó có Sao Trên Rừng, Trần Tuấn Kiệt, Trần Đức Uyển, Hoài Khanh, Kim Tuấn, Hoàng Trúc Ly, …; mỗi người một ngôn-ngữ, mỗi người một phong cách đi vàolòng người thưởng ngoạn!
Về văn xuôi,Mai Thảo là người đã đóng góp chomột cách làm mới hànhvăn. Nhữngsáng tạo về ngôn từ, cách chấm câu, văn tùy bút, cảm giác. Cách dùng chữ trang trọng, chấm câu theo tình cảmvà diễn tiến câu chuyện. MaiThảo cổ võ lối viết văn như vẽ tranh. Chỗ chấm phá, chỗ chi tiết. Chỗ nâng cao, chỗ xuống thấp. Đêm Giã Từ Hà Nội, Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời cũng như haitập Tùy Bút và Căn Nhà Vùng Nước Mặn là những thử nghiệm thành công. Những chữ dùng nayđãquen nghe quen thấy, nhưng vào những năm 1956-61 là những cái mới đã làm hơn một người chau mặt!
TruyệnThanh Tâm Tuyền tiêu biểu qua Bếp Lửa (1957) và Khuôn Mặt (1964) trong đó nhiều truyện ngắnđãđăng trên Sáng Tạo, coi cuộc đời là một vô nghĩa toàn diện. Con người “hôm nay” lên đường, lữ hành, tự vạch đường, tự thoát khỏi tầm thường và khuôn sáo. Cô đơn trong trừu tượng sâu thẳm của con người, nhưng cuối cùng cái phi lý vẫn bủa vây, đẩy con người lún sâu thêm vào trong thực tại mà ý nghĩa nguyên thủy bất động của sự vật vẫn chưa tìm thấy.TruyệnThảo Trường dùngnhững tra vấn khắt khe nhưng chân thành của con người trí thứccó đức tin, để nhìn con người và chiến tranh! Cả ba dụng văn nhưngnếuMai Thảo làm xiệc với chữ, Thanh Tâm Tuyền khiến con chữ sắclạnh và Thảo Trường nung lửa cho từng chữ dùng!
Bên cạnh khuynh hướng trí thức và viễn kiến thời bấy giờ là lập trường làm nghệ thuật dấnthân, của “nhóm” tạp chí Sáng Tạo qua Mai Thảo, “phát ngôn viên”, đã khẳng định “ Trong phạm vi vàý hướng một cuộc hành trình của một giòng nghệ thuật ý thức chuyên chở trên giòng vận động của nó cả một tâm trạng thế-hệ đòi quyền chủ động đời sống, nghệ-thuật đã được hình thành như một cuộc đấu tranh tự giải phóng của thân phận con người khỏi cái thân phận hiện hữu của nó giữamộtxã-hội mà nó không thỏa thuận và chấp nhận, khuynh-hướng đối kháng đã trở nên động lực cănbản, làm nền, của giòng nghệ-thuật ý-thức cách-mạng, của những người làm nghệ-thuật cách-mạng. Sự đối kháng đó tự nhiên, bắt buộc và thường trực. Cho nên cái thái độ của người làm nghệ-thuật chỉ có thể làmộtthái độ duy nhất: thái độ đó là sự báo động thường trựccủaý thức (...) (và) nghệ- thuật là sự báo động thường trực của ý thức, sự đối kháng thường trực và vĩnh viễn của thân phận con người trước sự vật, trước đời sống, sự đối kháng không phải là một hành động phá hoại, nó chính là hình thái xây dựng đích thực, duy nhất của nghệ-thuật giữa đờisống, lý do đích thựcvà duynhất cắt nghĩa cho sự có mặt và vai-trò của nghệ-thuật giữa đời sống... “(“Nghệ-thuật, sự báo độngkhẩn thiết và thường trực của ý thức”. Sáng Tạo, 7,9-1961, tr. 12).
Dụctính cũng đã được nhóm đưa vào văn-chương. Tạp chí Sáng Tạo đã đăng nhiều truyện đầy dục tính của các tác giả về sau không đi tiếp nghiệp văn, như Duy Thanh (Khép Cửa, Thằng Khởi, Chiếc Lá,...), Thạch Chương (Tinh Cầu,..). Giải phóng tình dục “hôm nay” theo nếp sống buông thả thời hậu chiến ở Âu Châu, là một trong những chủ trương văn nghệ của nhóm. Thạch Chương, tức nhạc sĩ Cung Tiếnsaunày, lúc bấy giờ viết truyện ngắn “hiện sinh” và là lý thuyết gia cho khai phá này, trong bài “Giới thiệu một nhận thức siêu thực về nghệ thuật” đã viết : “... Chúng tôimuốn quay lại vũ trụ hoang sơ dục tình nguyên vẹn mà tâm hồn mỗi kẻ còn trinh như sữa. Nhưng làcái tinh khiếtđáng sợ của con bò rừng. Nghệ thuật hôm nay là sự biểu lộ một “furie du total”, một tiếng gọi quay trở về rừng sâu thẳm mà ở đó còn vẳng lên những tiếng cười điên mê, những tiếngla cuồng dại vọng về từ trăm thế kỷ của bản năng thuần túy. (...). Nghệ thuật hôm nay còn được biểutỏ mãnh liệt trong tình yêu ngọt ngào của xác thịt, hay “tìnhđiên”. Dục tình, như có người đã nói trênmặtbáo này, là động lực độc nhất của thế giới. Đọc ... phần lớn những tác phẩm của D.H.Lawrence, ai mà không cảm thấy vật dục mình xao xuyến,mộtthứ xao xuyến rất nghệ thuật, rất siêu thực, rất trắng, rất tinh khôi...”. Lý do ông đưa ra vì sống trong một thời đại “sống trong cái thế trên đe dưới búa, một bên là tự do tuyệt đối cá nhân, một bên là áp bức chính đáng...” (Sáng Tạo b.m., 5, 11-1960, tr. 97-102).
Trong truyện Thằng Khởi, Duy Thanh để cho nhân vật xưng Tôi, mộtcô gái 16 tuổi, muốn ngủvàrồi ra tay “hiếp dâm” một đứa gánh nước người Chàm: “Tôi đã để ý đếnnónăm tôi 16 tuổi. Cái vẻ đẹp man rợ ngu xuẩn ấy mang cho tôi nhiều ý nghĩ dâm dục. Tôi chắc rằng thằng Khởi chưa hề ngủ vớiai bao giờ (...) Thằng Khởi vẫn ngủ trong lều. Đôi môi dầy của thằng Khởi mấpmáy và vị nước bọt của nó sền sệt nhạt nhẽo. Tôi lay nó dậy. Thằng Khởi chồm lên chắc định la làng nhưng tôi bít miệng nó lại. Mắt nó mở to có vẻ ngạc nhiên lắm, nhưng cũng ngồi im. Rồi đưa tay quờ vào người tôi. Hơi thở của nó và của tôi hừng hực trong đêm tối...” ( Sáng Tạo, 21). Cũng Duy Thanh trongtruyện Chiếc Lá để nhân vật là côgái 18 tuổi “thíchthay đổi, từ vấn đề ái tình, sinh lý, không khí, đồăn, ...” và không thích cái gì quen hoặc vô nếp cả.Khicòn là cô bé 15 tuổi,cô tađã ngủ với anh rểvừa để trả thù chị mình vừa tìm cảm giác: “Tôi muốn đo cái độ dục của hắn khi hắn ngủ với chị ấythế nào. Cũng lạ, cái cảm xúc ấy lúc đề phòng trước thì thấy tầm thường hết sức. Tôi thấy cái hìnhthùsát cạnh mình đến vô nghĩa...” (Sáng Tạo b.m., 1, 7-1960, tr. 26-32).
Bước qua thể-loại kịch, “nhóm” có những đóng góp cũng hiện-đại. Kịch bi tráng của thời tiền chiến nay hết hợp thời đại và không-gian mới, thứ lãng-mạn sinh nhầm thế-kỷ ngột ngạt, nhưng tâm sự đó hết còn được hiểu, nơi miền đất rộng lớn nhiều thử thách, đất của cải-lương và của màu mè tình tứ bình dân! Cũng vì là thời đang tới của những Thanh TâmTuyền, Doãn Quốc Sỹ và Trần LêNguyễn, v.v…, thời kịch nói, một thứ nói rất kịch của một thời đại vừa mở ra, nói mà hoang mang tâm trí và tư duy tìm bắt những lý tưởng mới, khác. Thời của những lý tưởng chính trị, nhắm hang động, dấn thân. Ba Chị Em củaThanh Tâm Tuyền, một kịch bản ngắn về Thu, Nguyệt và Hương, ba chị em mà như ba kẻ lạ với nhau, trong tương quan với người mẹ. Liên hệ và tình cảm mỗi người con là một thế giới riêng, nhiều khúc mắc. Hương thương tất cả người thân nhưng“chưa bao giờ con dámthương con cả. (...) Tôikhông dám thương tôi, không dám nghĩ đến tôi và tôi đau khổ. (...) Tôi không được quyền sống với chính tôi, người ta nghĩ về tôi thế nào thì tôi phải sống như như thế sao?” (bản in năm 1967, tr. 12). Hương, “đứa con gái hiền lành ngoan ngoãn luôn luôn nghĩ đến hạnh phúc củakẻkhác đã ngoại tình.Vì tôi muốn người ta không thể bắt tôi sống theo ý nghĩ cố định của người ta, dù phải giá đắt, cái chết, tôi vẫn làm” (tr. 13). Thu xưng tôi với mẹ và khinh thường mẹ đã không là người đàn bà chung tình. “Tôi là con mẹ, tôi thương mẹ nhưng nhất định phải khác mẹ. Tình yêu bấtlựcgây ra thù hằn và trong thâmtâm càng thương nhau đau đớn” (tr. 15). “Người đàn bà phải chung thủy với một người. Tôi đã chọn làm người để chung thủy, lỗi ở tôi, tôi gánh chịu nhưng tôi khôngphản bội chân lý tôi tìm thấy” (tr. 16). Nguyệt bỏ nhà ra đi khi 18 tuổi và trở về với tên Cẩm Vân.Nhưng cả đều rơi vào tay một tên đàn ông mà không biết, chồngThu, người chị cả, tình nhân củaHương cô gái út và là người đã quỳ xuống chân Nguyệt “...nếukhông yêu anhthì em hãy giết anh đểanhđược chết trong tay em” mà nàng vẫn xem như “một bãi đờm” (tr. 20). Kịch đời xảy ra vàonhững buổi tối trong mộtngôi nhà hoang, độc thoại và đối thoạiđến cuối màn vẫn không nhắm đónglại một diễn văn hay sự thật nào, mà hình như mở ra bờ vực thẳm, phó mặc định mệnh, thay vì nắm bắt! Ba Chị Em củaThanh Tâm Tuyền cũng là bi đát của thế hệ ông, những nghịch cảnh ở buổi giaothờikháng chiến, đi ở, Bắc-Nam, vùng kháng chiến - vùng tề,... Ba Chị Emlà kịch độc thoại hay kịch về con người thời đại cô đơnmấtniềm tin nơi tha nhân, kể cả người thân và người yêu, mất cảtự tin. Nhân vật như quen thuộc nhau, nhưng vẫn đóng kịch,đối thoại của họ như căncứ trên cái gì đó như có đó.Người vắngmặt... Không ngạc nhiên trước nhữngtiết lộ tưởng là bất ngờ! Tác giả kịch bản lộ diện hẳn, nhập trong các vai diễn, phần đời họ đi vào văn chương nghệ thuật, có khi lại là phần tinh- yếu nhất, sâu kín nhất. Dù vậy, bi-kịch ở miền Nam thời này đã từ triết-lý (và chính-trị) đi đến nhân- bản!
Tạp-chí Sáng Tạo không đăng nhiều kịch bản: vài kịch bản của Thanh Tâm Tuyền (Ba Chị Em,ST số17,...), Doãn Quốc Sỹ (Trăng Sao, STsố 12), ... Trên Sáng Tạo số 23 (8-1958) có đăng bản tuyên bố thành lập ban kịch Đêm Hà Nội nhắm phát triển sân khấu kịch nghệViệt-Nam, nhưng hìnhnhưchưa có những thực hiện nào được ghi nhận. Trong cuộc thảo luận “Nhìn lạivăn-nghệ tiền chiếnở Việt-Nam” (ST b.m., số 4, 10-1960) có nhắc đến kịch nhưng các thành viên không đi sâu vào vấn- đề.
*
Sáng Tạo đã mở đường cho những người làm văn nghệ mới từ nay rủ nhau lên đường: Hiện Đại, Thế Kỷ Hai Mươi, Gió Mới, Nghệ Thuật,... Sáng Tạo cócông gây hứng khởi, khai phá những cái mới. Hơn 12 năm sau, Mai Thảo kể lại những ngày Sáng Tạo khi viết ‘Đứng về phía những cái mới’ mở đầu Tuyển Tập Sáng Tạo: “Tạp-chí Sáng Tạo nếu được nhắc tới ở đây cũng chỉ là một chặng đường nhỏ của đường dài và hành trình lớn” (6). MaiThảo đã sống động vẽ lại cái không khí văn-nghệ lúc đầu đó: “Chất nổ ném vào. Cờ phất. Xuống núi, xuống đường. Ra biển, ra khơi. Vàcuộc cách mạng tất yếu và biện chứng của văn chương đã bắt đầu (...) Trong một thực trạng dày đặcnhững chất liệu của sáng tạo và phá vỡ như vậy, văn học nghệ thuật mặc nhiên không còn là tả chân Nguyễn Công Hoan, lãng mạn lối Thanh Châu, những khái niệm Xuân Thu, những luận đề Tự Lực” (6). Trong cuộc thảo luận “Nhìn lại văn nghệ tiền chiến ởViệt-Nam”, Mai Thảo cũng đã cho rằng “Ảnh hưởng nghệ thuật tiền chiến, trên thựctế, theo tôi, không còn gì. Đó là ảnh hưởng đã phai tàncủa một giòng nghệ thuật tự nó đã phai tàn. ( …) Tóm lại, theo ý tôi, chỉcó thể bảo rằng: nghệ thuậttiền chiến vẫn còn khuôn vàng thướcngọc cho nghệ thuật bây giờ: những thứ đầu óc đố kỵ, thànhkiến, khiếp nhược, vô ý thức. Những tâm hồn lười biếng, phản tiến hóa. Bọn đạo đức giả. Bọn trí thứcvỏ”. Sau khi đã thử “phóng cái lao ý thức về đằng trước”vàchối bỏ đằng sau, những thành quả của văn nghệ tiền chiến, họ khẳng định: “Những khuynh hướng mới là những trở thành tất yếu vàbiện chứng của một quá trình đổi thay và tiến hóa của nghệ thuật hiện đại Việt Nam”. Nhưng cũngtheoông, cuối cùng cái gọi làcuộc cách mạng này “tựu trung vẫn chỉ làlịch sử tiến trình biện chứng củanhững trào lưu cạn dòng phải nhượng bộ dứt khoát cho những ngọn triều lớn dậy thay thế” [6].Và trong phỏng vấn của tạp chí Văn số 192 vào năm 1971, Mai Thảo lại xác nhận: “ Tờ Sáng Tạo là của những thí nghiệmvà những mở đường (...) Tôi không nhìn Sáng Tạo như nơi phát xuất và hìnhthành một dòng văn học nghệ thuật. Lớn chuyện quá. Một tinh thần nào, một cách thế nào thì có “. Mai Thảo còn nhắc nhở trở lại cái thời làm tạp-chí Sáng Tạo nhiều dịp khác trên tuần báo Nghệ-Thuậtvà tạp-chí Văn trước và sau năm 1975.
Nói chung, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Tô Thùy Yên là những thành công, những mới mẻ - nhưng xét cho cùng Mai Thảo, Tô Thùy Yên vẫn chưa rời cái nền cũ, hồn xưa. Quách Thoại, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế xưa, khuôn phép hơn nữa, còn Duy Thanh, Thạch Chương đã ngừng lại ở những thử nghiệm hiện sinh buông thả như người Âu-châu!
Nhóm Sáng Tạo đãlà “cái phất áongang tàng” của một số nhữngcây viết trẻđaphần là người Bắc di cư. Nhóm và tạp-chí Sáng Tạo đã tạo chỗ đứng cho mình bằng cách khai thác những ý tưởng,phong trào củaÂu châu về theo du học, nhập cảngmốt hiện sinh và siêu thực vào thơ văn, và “thanhtoán” những thế hệ làm văn-học đi trước họ. Bìa sau của tập Thảo Luận ghi rõ rằng tuyển tập ghi lạinhững “cuộc thảo luận thanh toán với thế hệ trước, xác định lại giá trị đích thực của nghệ-thuật tiền phục thân phận của chính mình. Một nghệ-thuật mang trong nó sự vận động biện chứng của hủy diệtvàsáng-tạo...”. Nguyễn Sỹ Tế sau này ở hải-ngoại cho biết thêm“chủ trương của Sáng Tạo là dùngphương tiện văn-chương và nghệ-thuật tranh đấu cho tự do, thúc đẩy sự đổi mới, dung nạp những dị biệt cá tính trong một nềnvăn-hóa phong phú và cởi mở hơn...” [7]
Cáctạp-chí thời đó như Văn Đàn đã lên tiếng phê phán thái độ của nhóm Sáng Tạo. Nguyễn Văn Trung, một cộng tác viên với Sáng Tạo từ những số đầu, khi Sáng Tạo sang bộ mới mở đầu một loạt nhìn lại quá-khứ văn-học và phế đổ Tự Lực Văn Đoàn và thơ văn tiền chiến, ông đã phải lêntiếng “Gửi anh em trong “nhóm Sáng Tạo” [8] dù nhìn nhận là so với Thế Kỷ Hai Mươi hay Hiện Đại, “nhận định về thái độ, tôi nghĩ tới các anh trong “Sáng Tạo” nhiều hơn, vì chỉ có Sáng Tạo là muốn xác định lập trường mộtcáchtập thể và bằng lý luận” và “tôi đồng ý với các anh về nghệ-thuậtlà một “vận động biện chứng của hủy diệtvàsáng-tạo” nhưngkhông phải hủy diệt để đi từ số không.Ngàyhôm nay ta lên đường, cũng như hôm qua, người đàn anh đã lên đường, bao giờ cũng lênđường từ một lịch-sử”. Ông nhận xét: “Tôi có cảm tưởng là các anh hiểu sự hủy diệt theo nghĩa hư-vô-hóa cái đã có. Nếu thậtthế thì là một nhầm lẫn và cũng là một việc không thể làm được. (…) suy nghĩ, sáng-tác bao giờ cũng bắtđầutừ cái đã có, là lịch-sử, chứ không thể từ số không, từ hư vô.Nếu không có lịch-sử, ta không có đối tượng để ý thức và sáng-tác, vậy lịch-sử là cần thiết và giá trị, vì nólà điều kiện thiết yếu để ta có thể lên đường, là cái để ta có thể vượt đi (…) Hơn nữa,chúng ta cànghọc hỏi lịch-sử, chúng ta càng có thể vượt xa hơn quá-khứ, và ta càng có một lịch-sử lâu đời phongphú, ta càng có điều kiện tạo nên những vị trí cao hơn, những kiếp sống trưởng thành”. Vì theoNguyễn VănTrung, nhóm Sáng Tạo “đả kích, gây hấn” vì không tự tin và để “giữchỗ” trong khi cácnhà văn thơ của nhóm chưa “có gì đáng kể”, chưa có những tác-phẩm “trưởng thành” thuyết phụcđượcđộc giả; vẫn như các nhà văn khác hiện nay “bắt chước kỹ thuật Tây phương vô ý thức và cũng chưakịp bắt chước đúng thì quan niệm mà mình bắt chước đã bị vượt qua” trong khi nhóm phê pháncác nhà văn thời trước “ấu trĩ”, “bắt chước” cái cũ cả thế kỷ của Tây phương,... Mặt khác, vào tháng 4 năm 1960, Nguyên Sa ra báo Hiện Đại sống được 9 tháng mà từ khi ra mắtđãchứng kiến sự đixuống của tờ Sáng Tạo có thể không còn thích hợp với người đọc lúc ấy “trí thức” khác hơn chăng - trong bài “Mở Cửa” ở những trang đầu HiệnĐại số ra mắt, Nguyên Sa đã có nhận định về tình trạng văn nghệ lúcđó: “Văn nghệ trong những ngàytháng vừa qua nằm trong một tình trạng buồn. Cuộc sinh hoạt ấy như chợt chìm xuống một vũng sâu có bóng tối dầy và nặng. (...) Tờ báo của cuộc đời văn nghệ 57, 58, 59 đi mất. Nhữngngười văn nghệ còn ở đấy nhưng buồn cũng đã ở đấy...”.
Tóm lại, Nhóm Sáng Tạo đã khởi đi từ thái độ chính-trị nhưng xa lần trong thực tế sáng-tác, thìcùng thời đó, hai nhóm Chỉ Đạo và Quan Điểm muốn đem chính-trị vào văn-chương - văn-chương chính-trị, cho con người, mang tính tri thức hoặc cho những ai muốn đứng thẳng người, một cách công khai, sĩ khí và giữ thế chủ động sẵn sàng đối phó. Chính tinh thần sáng-tạovàthế đứng văn-nghệ dân-chủ tự do đã khiến nhóm dù đã ngưng hoạt động và thành viên lần lượt qua đời, vẫn được người đời sau đó vẫn nhắc nhở và tìm hiểu! Riêng Mai Thảo làngười đã sống thật với văn-học nghệ-thuật, 5 năm sau, ông nhận tài trợ của chính quyền xuất-bản tuầnbáo Nghệ Thuật thànhcông mộtlần nữa hâm nóng và làm sinh động sinhhoạt văn-nghệ miền Nam!
Chú-thích:
1- NXB Sáng Tạo, Tủ sách Ý Thức, 1965. 156tr.
2- Về sau ở hải ngoại, Mai Thảo đã xác nhận hoạt động chung với Nguyên Sa chỉ được hai năm (1956-1958), đổ vỡ vì ngộ nhận (“Mầu áo lụa Hà Đông trong thơ Nguyên Sa” in Chân Dung 15 Nhà Văn Nhà Thơ Việt Nam. (Westminster, CA: Văn Khoa,1985), tr.136). Còn KýGiả báo Ngày Nay(Houston, TX, số388, 1-5-1998) trong bài “Nhà thơ Nguyên Sa không còn nữa” cho biết lý do của hiểu lầm đó “qua lời tuyên bố của Nguyên Sa trong cuộc phỏng vấn với nhà báo HồNam về thơ Tự do”).
3- “Nỗi Buồn Trong Thơ Hôm Nay”. SángTạo, 31, 9-1959, tr. 6.
4- Nguyên Sa. “Kinh nghiệm thica”. SángTạo, 21, 6-1958.
5- Thế Phong. Lược Sử Văn-Nghệ Việt-Nam: tổng luận 60 năm văn-nghệ Việt-Nam, Vàng Son tái-bản 1974 theo bản 1958, tr. 27.
6- Tuyển TậpSáng Tạo. Sài-Gòn: Nguyệt San Tân Văn, số29,9-1970, tr.11, 13, 15.
7- “Nhìn lại tạp-chí Sáng Tạo”. Khởi Hành CA, 61, 11-2001).
8- “Gửi anh em trong “nhóm Sáng Tạo”“. Bách Khoa, 94, 12-1960, tr. 38-44.