Giải oan về một câu thơ cho một người làm thơ

          Người xưa thường nói văn chương để lụy một đời. Dínhvào nó là chắc chắn mang nhiều khổ lụy. Khổ lụy có nhiều cách. Ai cũng xúc độngcả nhà Tiền Quân Nguyễn Văn Thành bị nạn vì bài thơ ngông của con trong đó haicâu kết có thể hiểu là chống chế độ, muốn thay đổi vương quyền đang bao trùmthời đại. Sơn tể phen nầy dù gặp gỡ, Giúpnhau thay đổi hội cơ này. (Trần Trọng Kim dịch) Ai cũng vừa thương vừa tiếccho việc làm của giám khảo Cao Bá Quát khi không biết thí sinh là ai mà chỉ vìlân tài khi thấy bài văn hay, bèn lấy muội đèn sửa lại những chữ kỵ, húy chonên bị biếm, bị giáng. Còn biêt bao nhiêu người khác lụy với văn chương nênnghèo suốt đời như Tản Dà, và hầu hết các nhà văn Việt Nam từ trước đến nay.

TVH(1902-1982) và cháu nội

      Hiệntại thì cái lụy có nhiều cách. Nào như TS Nguyễn Đình H. suốt đời chỉ biết bacon chữ và cả phòng từ điển vậy mà vì cho in hồi ký nên thiên hạ thơ rơi nào làthứ trốn lính, không ra sức khi đất nướctrong cảnh dầu sôi lửa bỏng…nhiều nhiều lắm, không thể nói hết. Chuyện nay rồicũng có lúc sẽ rõ ràng đen trắng. Đồ tôi muốn nói cái lụy vì một câu thơ củamột nhân vật đặc biệt, chuyện xảy ra tương đối lâu, chuyện trắng đen hầu nhưchưa ngã ngũ vì thời cuộc chạy với tốc lực của ngựa kỳ ngựa ký, vì đất nướctrải qua một cuộc bể dâu ai đâu rảnh rỗi ngồi nhắc đến câu thơ này câu thơ nọ…

          Những năm cuối thập niên sáu mươi báochí Sài Gòn đưa ra một câu thơ trong bài thơ nào đó của ông già gân: Ngồi buồn gải dái, dái lăn tăn để rồitán hươu tán vượn là ông làm thơ tục tỉu, đã không xứng đáng là người làm thơthì chớ, cũng không đáng mặt người trong hàng ngũ lãnh đạo nhà nước.

          Đồ tôi không thấy tác giả trả lời dầurằng ông ở vị thế gọi là quyền chức. Cũng không thấy những đồ đệ bao vây ôngvòng ngoài vòng trong luôn luôn thầy thầy, em em, thầy thầy, con con lên tiếngbiện hộ giảng minh cho thầy. Và rồi nhiều người, dưới ảnh hưởng của bài báo đó,có cái nhìn thiên lệch về tài đức và khả năng văn chương của ông.

          Người nghe nói thì nhiều. người có dịpđọc nguyên bài thơ thì ít. Đồ tôi ở trong số đó, dầu rằng vẫn phục tài ông giàgân khi làm Đô Trưởng đã không dùng công xa mà đi xe đạp. Phục ông vì dính dángvào những vụ phản đối chánh quyền khi chánh quyền trổ ngón độc tài. Nhưng cái khí tiết chánh trị không thể bảovệ được khả năng văn chương. Đồ tôi vẫn coi ông Đô Trưởng từng làm thầyViệt văn của trường Nguyễn Đình Chiểu mấy chục năm trước chẳng qua là ngườimuốn nổi, nổi trong chánh trị lẫn văn chương bằng những chuyện…hơi khác bàngdân thiên hạ.

          Rồi thời gian qua đi. Bao nhiêu sónglớp phế hưng. Ông già mang vô mình cái chức vụ thuyền trưởng, được nhận cho cầmtay lái khi tàu sắp chìm. Ông muốn cứu tàu, cứu người trên tàu, nhưng ông quẹotay mặt tay trái, chạy tới chạy lui gì cũng có người cản đản. Ông làm gì cũngkhông được, đành mang tiếng kể bất thức thời vụ…Vô trí, vô mưu.

          Đồ tôi sẽ không nói tới ông nếu khôngcó cơ may đọc nguyên tập thơ của ông: LaoTrung Lãnh Vận . Người làm thơ đã đoán biết sẽ có công luận về sau nên đãviết lạc khoản cho tập thơ:

Mấy vần thơ lạnh ở trong lao,
Khéo, vụng dầu ai hiểu thế nào;
Thương, cũng cám ơn; cười cũng chịu,
Hỏi người thông cảm độ chừng bao?

          Trong tù dĩ nhiên là lạnh lẽo. Làm thơtrong tù không thể lạc quan được. Thơ tù đương nhiên lạnh, đương nhiên nóinhiều những chuyện thuộc về mình. Cái tôi xấu tốt vì thế dễ phô bày. Ngườithương, người cười cũng có. Và tác giả chấp nhận tất cả dầu rằng chấp nhận vớinỗi chán chường, người thông cảm chắc chắn sẽ không nhiều!

          Và thật vậy. Hầu như cả nước lúc tậpthơ của ông ra đời đều không thông cảm. Ờ mà tại sao ông ngồi tù? Ông nói: Ngàythứ bảy 12-11-1960, lối 17 giờ, tôi bị Nha Cảnh Sát và Công An Quốc Gia đòi đếnrồi câu lưu luôn để cứu xét vì tôi bị tình nghi liên can trong biến cố11-11-60. Ông không nói mình oan hay ưng. Ông không biện minh hay phủ hào quangcho chuyện mình làm. Ông chỉ nói nằm trong đó nhớ chuyện “ngồi trăng” của Học Lạc, bèn sáng tác một bài thơ tương tợ:

Này anh, này cụ, này là chú,
Lóc cóc vào đây ngồi một lũ.
Những tưởng buồn như chó mất nhà,
Nào ngờ vui quá bài xôm tụ.
Thân nầy dầu vướng chốn lao lung,
Nỗi ấy vẫn ghi trong phế phủ.
Xuống chó lên voi lắm chuyện đời!
Xưa nay diễn biết bao nhiêu vụ!

          Đồ tôi thích nhứt hai câu kết: sónglớp nầy xô lớp khác, phế phế rồi lại hưng hưng. Chuyện khá thường tình, khônggì đáng thắc mắc. Cặp kết như một lời tuyên bố chắc nịch: không có gì lạ mìnhtừng lên voi bây giờ xuống chó. Giờ xuống chó rồi sau nữa lại lên voi. Ý như biquan, nhưng thật ra là thái độ của thức giả biết chuyện tuần hoàn phải có ởđời. Nhưng mà chắc ông trong tập thơ phải nói rõ hơnchút xíu rằng tại sao mình bị bắt chớ? Có! Ông nói trong bài thơ sau đây, tôi chỉ xếp thành câu văn những lời của Bà thân mẫutôi đã nói với tôi trong giấc chiêm bao:

Vì chưng bẻm mép mới vào đây,
Câm họng đâu ra đến nỗi nầy.
Dân chúng sướng; đồ: dân chúng khổ,
Nước nhà yên; bảo: nước nhà nguy!
Dở hay mặc kệ thằng cha nó!
Còn mất can chi lão nội mầy?
Nếm thử mùi tù cho đáng kiếp;
Từ rày chừa bỏ tật thày lay.

          Ờ, vậy thì ông phản đối nhà cầm quyềnvì không biết đến thực trạng nước nhà trong cảnh sanh linh dồ thán. Được! Nhưngthái độ ông trong tù như thế nào?

Ra đi người bảo khổ đa nghe!
Ai ngỡ vào đây sướng quá nè.
Sáng hưởng bánh tây dồn thị nguội!
Đêm nằm ghế bổ xủ màn the.
Đèn chong thường bữa soi tràn cửa,
Lính gác thâu canh diễu khắp hè.
Giả lảng cười vui cho hết buổi,
Bên lòng nặng trĩu mối còn đe.

          Ông không thấy mình khổ khi bị mất tựdo. Ông nói như người xưa làm thơ khẩu khí. Ông chấp nhận hiện trạng và vui vớinhững gì mình đang đối diện dù rằng trong thâm tâm ông lo không biết rồi đâychuyện gì sẽ tới cho mình. Chính quyền lúc đó đang say quyền lực, đang giận vìnhững chuyện nuôi ong tay áo. Không biết họ sẽ sử dụng quyền của kẻ mạnh tớimức nào.

          Nhưng mà thầy Đồ nầy! Vẫn chưa nghethầy Đồ nói tại sao ông ta nói chuyện tăn tăn?

          Ấy, chuyện đâu còn đó. Thử tưởng tượngra ngồi trong xà lim nhỏ. Chung quanh không có gì ngoài bản thân ta. Không cógì để làm cho qua ngày qua tháng. Tắm rửa ư, không thể như ở ngoài. Ghẻ chốc,nấm mốc những chỗ da non được cơ phát triển. Ngứa ngáy khó chịu. Những sinhhoạt con người bị bóp tới tối thiểu. Đề tài dễ dàng sẽ là những chuyện thấytrước mặt. Ông nói trong lao có cụ Cử Tạ Chương Phùng, thân phụ của sử gia Tạ chíĐại Trường tuy tuổi đã cao song còn vuitính, hay nói giỡn cho anh em đỡ buồn, thường than phiền rằng: Cảnh trong lao khôngđến kham khổ, chỉ thiếu “ma femme” làđáng buồn thôi. Ông, TVH,  làm bài sau đây như để chọc quê người bạn tù ởxà lim kế:

Suốt ngày ăn ngủ, ngủ rồi ăn,
Chưa thấy chuyện gì, chuyện khó khăn.
Nằm khểnh sờ môi râu tủa tủa,
Ngồi rù gải háng: dái tăn tăn.
Làm sang phe phảy tay còn quạt,
Đi tắm trần truồng mổng thiếu chăn.
ĂN, NGỦ, ỈA xong; đầy đủ cả,
Muốn chi chi nữa biết mần răng!

          A! té ra ông làm thơ trêu người chớkhông phải tự vịnh. Chuyện gãi không phải của ông. Cử chỉ thô, ngôn từ tục vìvậy có thể coi như không cấu thành tội. Nhưng ông mang tội khác: cái tội khôngđể ý rằng thi trung hữu họa, trongthơ có hình vẽ, ông đã vẽ ra một hình thù quá đen cho chế độ đến nỗi không vừalòng mấy ông nhà báo. Thơ phải thanh tao, ông thành thật quá, mô tả chân phươngquá như là bôi xấu những người đã bắt ông. Làm cho chế độ của họ bị vết nhơ.Cái lụy ông phải mang là thơ của ông cũng bị nhơ theo. Người ta chỉ còn nhớchuyện gãi, chuyện tăn tăn, Chuyện muốn chi chi nữa biết mần răng. Chuyện trần truồng mổng thiêu chăn. Người ta quên những thứ khác.

          Chánh trị là giai đoạn. Rồi sự bắt bớnầy nọ sẽ được quên vì lịch sử quá dài theo thời gian không sách vở nào ghichép hết được. Còn văn chương là thứ ít oi, câu thơ của ông sẽ được bộ nhớ củađộc giả giữ lâu lắm mới kick out. Ông sẽ còn bị buộc tội dài dài vì dám viết dái tăn tăn… chừng nào người ta còntruyền tụng thoại ngồi rù gãi háng!

          Mong Đồ tôi giải oan được cho ông phầnnhỏ, dầu rằng chưa bao giờ được làm việc hay diện kiến với ông. Chỉ là chuyện thuầntúy văn chương và sự công bình.