Thánh Nữ Chân Kinh 聖女眞經, một quyển sách dạy luân lý chăng, một tiếng kêu về sự xuống dốc văn hóa chăng?




(Hai trang nguyên bản của bài văn. Tài liệu sưu tầm của NVS).


Những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đất nước Việt Nam có những phong trào yêu nước nhưng thể hiện dưới một hình thức mà bề ngoài nhìn vô như là những sự nở rộ của chuyện mê tín dị doan. Trong Nam là các bài thơ rao giảng của những ông đạo ông sư lặn lội nơi thâm sơn của bảy Núi, U minh, Long Xuyên, Châu Đốc. Cụ thể là thơ của Đức Phật thầy Tây An, của Ông Sư Vãi Bán Khoai… Ngoài Bắc là những sách vở của những Đàn tuy quanh quẩn ở thủ đô Hà Nội nhưng ảnh hưởng thiệt nhiều đến nỗi lên thành một đạo nho nhỏ của một thời và kéo dài cho tới ngày nay vẫn còn: Đạo thờ mẫu với những bài văn được phát ra trong những buổi chầu văn. Các sách do những đàn nầy ấn hành hay chép tay toàn bằng chữ Nôm hiện còn tồn tại đó đây có thể thấy được chừng mươi quyển trong các thư viện chuyên môn.

Những bài rao giảng nầy tương truyền là được truyền ra từ miệng của những bà hầu đồng, trong những buổi lễ trang nghiêm mà đồng được một vị nào đó nhập vào, và hát lên. Xong buổi chầu văn thì người hầu đồng không còn nhớ gì về những bài văn mà mình vừa nói ra vì đó là một thánh mẫu nhập và phát ngôn, thường được gọi là thánh mẫu hay công chúa.

Tôi chú ý đến nội dung những bài văn đó nếu có dịp tiếp xúc với bản văn, bất kỳ là được khắc in hay được chép tay. Nội dung nầy rất dễ ấm lòng người đời sau như chúng ta: thường là khuyên trai yêu nước gái tứ đức tam tòng. Yêu nước là cách nói tổng quát như là làm trai cho xứng tài trai. Không khai triển thêm tại sao phải yêu nước, cũng không nói đến sự có mặt của người Pháp đương giật dây triều đình và đương chủ trương một chế độ bóc lột trên đất nước Việt Nam. Nhưng chắc chắn người lúc đó đã hiểu.

Với dòng thời gian cả trăm năm, với bi kịch đất nước loạn lạc triền miên, với sự thất thế của chữ Nôm, những bài văn nói trên thiệt ít có cơ hội tồn tại. Chúng tôi may mắn được sở hữu một quyển sách chép tay loại nầy của một vị hiệu là Để Nghi (弟) chép năm Bảo Đại thứ năm (1930) tựa là Thánh Nữ Chân Kinh (聖女眞𦀇).

Sách gồm 20 tờ đôi khổ nhỏ, chữ Nôm viết chân phương, có thể là dụng ý của người sao chép để cho sách được phổ biến rộng rãi. Trong nầy ngoài lời tựa còn có những bài thơ bài văn khi thì Hán khi thì Nôm của những công chúa, thánh mẫu như:

Đệ tam Thánh mẫu (bài Đệ Tam Thánh Mẫu Giới Khẩu Quá Ca nghĩa là bài ca của Đệ Tam Thánh Mẫu dạy răn về tránh lỗi lầm từ miệng người ta mà ra.)

Đệ Nhất Thánh Mẫu (bài Hội Đào Lý Thiên Luân), Đệ Nhị Thánh Mẫu (bài nói về phận đàn bà).

Cũng thấy một bài khác tựa là Vân Hương Đệ Nhất Thánh Mẫu Ca, vậy thì bà Đệ Nhất Thánh Mẫu có hiệu là Vân Hương.
  • Liên Hoa Công Chúa Ca.
  • Giám Thương Công chúa Tự Tự thi.
  • Đệ TamThánh Mẫu sương phụ ngâm.
  • Mai Hoa Công chúa tuế hàn tri tùng bách ngâm.
  • Vân Hương Đệ Nhất Thánh Mẫu Thi.
Những bài trên đại ý tương tự nhau cũng đều là dạy con người ăn ở cho phải đạo. Tôi xin phiên âm bài đầu. Trong tương lai nếu có hoàn cảnh sẽ phiên âm những bài còn lại. Xin nhắc đây là bản văn độc nhứt vì nguyên tác là bản viết tay. Bài nầy giúp ích cho người làm văn hóa thiệt nhiều mặt trong đó có sự giúp hiểu về những bài văn có được ở những buổi ngồi đồng của đạo thờ Mẫu mà ta có thể tin tưởng là nguyên văn, sự hiểu biết về lòng thiết tha của người đầu thế kỷ 20 trong việc dạy dỗ con cái nhứt là con gái.

Đệ Tam Thánh Mẫu Giới Khẩu Quá Ca.

Con người ta hay nhằm hay lỗi,
Cho nên nhiều đôi chối đôi co.
Sự nhỏ to sự chi cũng vậy,
Khuyên nhau rằng chớ lấy làm khinh.
Người xưa giữ miệng như bình,
Há rằng người trọng người khinh tơ hào.
Dẫu trên dưới người nào cũng vậy.
Nói dễ ra không lấy được vào.
Hỏi rằng là cớ làm sao,
Chỉ vì miệng nói bụng nào nghĩ cho.
Nói hết cay chua mặn chát,
Sau rồi là lạt lạt như không,
Miệng mà ở chẳng như lòng,
Ăn càn nói rỡ nào hòng về sau.
Khuyên ai đấy ở đâu cũng vậy,
Cứ nghe lời ta dạy mà theo.
Một là dạy chớ nhiều điều,
Hai là dạy chớ có nhiều đong đưa,
Ba là dạy đi trưa về sớm,
Chớ đàn hòa nên xóm thị phi.
Bốn là dạy khi đi lễ bái,
Cứ tâm tâm mà khấn bái Bụt Trời,
Chớ hề nhiều tiếng nhiều lời,
Phúc thời chưa thấy tội thời thấy ngay.
Năm là dạy từ thời còn bé,
Ăn nói cho có lễ có nghi,
Thờ cha kính mẹ đình vi.
Mẹ cha có hỏi con thì sẽ thưa,
Sáu là dạy khi đưa khi đón,
Mẹ cha chồng thời nhẽ nhỏ to.
Chớ hề khi bán khi mua.
Rằng nhiều rằng ít, xem chì xem khinh.
Bảy là dạy nghe kinh tụng niệm,
Cứ chăm chăm khuya sớm chuyên cần,
Chớ hề miệng nói lăng nhăng.
Rồi mà điều được điều chăng ích gì.
Tám là dạy khi đi bè bạn,
Hễ mau thân thời chóng chán nhau.
Chớ hề nói trước nói sau,
Nói thời sẽ nói ai hầu dám khinh.
Chín là dạy lấy mình làm trước.
Ở làm sao cho được như lời.
Đừng ai chê đừng ai cười,
Mười điều giữ được cả mười như kinh.
Mười là dạy thất tình hỉ nộ,
Dẫu mừng vui chớ có nói càn.
Nói được tội, nói được quan,
Một lời ta nói thiệt quan hệ nhiều.
Hễ ai giữ được mười điều,
Thời là người ấy khá theo thánh hiền.
Mấy câu niệm bức hoa tiên,
Nôm na kể hết một thiên chuyện đời.

Bài văn suông sẻ, gieo vần không lạc vận, ý tứ trôi chảy chẳng lập đi lập lại. Dạy ăn nói lựa lời, dạy đối đãi với chồng, với cha mẹ mình, với cha mẹ chồng… Là bài học tốt cho mọi người. Người phiên âm không tin tưởng mấy rằng đây là lời của một Bà Thánh khuất mày khuất mặt hiện vong về nhập vào bà đồng bà cốt để dạy đời. Tôi nghĩ rằng (1) để tạo thêm sự tin tưởng nơi quần chúng bình dân, (2) để tránh sự dòm ngó của chánh quyền thực dân, những người trí thức thời đó đã dùng phương tiện đồng bóng, đạo mẫu để đưa ra những điều răn dạy có ích cho văn hoá nói chung, rồi thỉnh thoảng đưa ra xa gần vài ba câu yêu nước thương nòi rất ích lợi cho việc bảo vệ sự tồn tại của dân tộc.

Bài văn dễ hiểu. Chỉ có hai chữ đình vi hơi khó khăn, áp dụng vào sự săn sóc cha mẹ có nghĩa là lo chăm sóc cha mẹ lúc hai ngài thong thả bình thường và cả khi đi ngủ. Câu ‘nói được tội nói được quan’ có nghĩa là lời nói phải khôn ngoan, nói bậy có khi mang họa vào thân, nói khôn ngoan thì được kính nể, vẻ vang… Câu đơn giản như vậy không phải là người có học nhiều không thể sáng tác được.

Đặt trường hợp những bài văn trong Thánh Nữ Chân Kinh là những bài của một tác giả nổi tiếng, như Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, hay Tản Đà Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh thì chắc chắn rằng thiên hạ đã biết nhiều và đã truyền tụng lâu nay. Tiếc thay không phải trường hợp nầy.

Năm 1930, chữ quốc ngữ đã lớn mạnh, đã vươn vai Phù Đổng đến được với quảng đại quần chúng, những bài văn Nôm như thế nầy hứng chịu sự thua thiệt nhiều mặt trong sự phổ biến, chúng tôi phiên âm, giới thiệu để đưa ra ánh sáng hầu chúng ta hiểu hơn mặt văn hóa Việt Nam thời nó xuất hiện mà tôi được có duyên để được tiếp xúc….