Tuồng Kiều ở Nam bộ: Kiều khóc mộ Đạm Tiên

Tuồng Kiều Nôm chúng ta có đây cũng gồm 3 hồi. Mỗi hồi trên dưới sáu mươi trang viết tay, khổ lớn, như A4, đủ để diễn trong một buổi hát độ 2 giờ. Nhìn chung văn chương lưu loát, đi theo đúng diễn biến sự kiện trong tác phẩm của Nguyễn Du. Đọc thầm cũng rất thích thú, hiểu điển tích, trong khi đọc chúng ta hồi ức về những câu thơ tương đồng trong truyện Kiều thì sự thưởng thức tăng thêm bội phần thú vị.

Để dễ dàng theo dõi câu chuyện, tôi tạm chia ra nhiều lớp theo người xưa, dầu trong tuồng nầy không có sự chia lớp như vậy, bắt đầu là tâm trạng của Chàng Kim về tin gần miền có nhà họ Vương, kế đó là kiều du Thanh minh… cho đến hết hồi.

Cũng nên nói thêm là nhân đây tôi xin gởi lời cám ơn tới người đã trao đổi với tôi bản tuồng nầy mà tôi sẽ nói tên khi được chấp thuận. Những sự trao đổi tư liệu văn học nào cũng có mặt tích cực của nó. Ở xa đất nước, nếu không nhờ sự trao đổi tôi sẽ khó lòng có bản tuồng nầy, và hôm nay quí vị không có quyển sách lạ đang cầm trên tay: Quyển Tuồng Kiều Nam Bộ hay tuồng Kim Vân Kiều ở Đồng Bằng Cửu Long, hay tuồng Kiều ở Miền Nam. Tôi muốn gọi nhiều cách để nhấn mạnh trên tính cách Miền Nam của bản tuồng.

Nhìn chung có thể nói đây là biến thể của truyện Kiều, biến thể để phù hợp với cách thưởng thức của người dân Nam Bộ vào thời tác phẩm nầy xuất hiện. Nhìn riêng, đây là kho tàng về lời nói, về từ ngữ Miền Nam vô cùng quý báu khó lòng tìm thấy ở các tác phẩm thuộc thể loại khác.

Lại nói:
Thưa chị!
Tảo mộ rồi xin trở vó cu[1],
Kẻo mà:
Xa đường lại hầu tà bóng ác nào!

Thúy Kiều:
Đoái (8) thấy tiểu khê[2] trước mặt,
Sực nhìn thổ mộ[3] bên đường.

Nghĩ coi cũng kỳ!
Cớ sao vắng[4] vẻ lửa hương.
Mà lại rậm rầu hoa cỏ[5] đi các em!

Vương Quan:
Dạ thưa!
Em xin thổ lộ,
Chị ngỏ tường tri.
Mộ ấy thiệt ca nhi,
Đạm Tiên là tên đặt.

Như nàng ấy là:
Một thuở nổi danh quốc sắc.

Ai ngờ:
Nửa chừng gãy nhánh thiên hương.
Lữ khách xui thấy vậy lòng thương.
Chung tình động tạm dùng lễ táng.
Trải bấy thỏ tà ác lặn.
Xiết bao bụi đỏ rêu xanh[6].
Hoa thơm xưa đấng hữu danh.
Cỏ rậm nay mồ vô chủ đó mà[7]!

Thúy Kiều:
Nghe qua lời đó,
Xảy chạnh lòng[8] đây,

Như vậy thời:
Hồng nhan từ thuở xưa nay,
Bạc mệnh chẳng chừa ai nấy a!
Tạo hóa phụ phàng[9] chi bấy,
Thuyền quyên cay đắng nhiều bề.

Ai đi!
Khi sống thì tay ấp má kề,
Giờ thác lại hương tàn khói lạnh.
Thương cho kẻ mồ (9) hoang cỏ rậm.
Chớ nào người phượng chạ loan chung,
Không ai còn chén rượu tạ lòng[10],

Chi nữa:
Sẵn đây tạm nén hương lấy thảo chớ!

Thúy Kiều, chúc:
Vái cùng đó suối vàng xin thấu,
Chứng cho đây lễ bạc[11] gọi là,
Thiệt thòi tủi phận đàn bà[12],
Áo não ngụ ngâm thi vận a!

Thúy Kiều, ngâm:
Khuất bóng lầu xanh ngọn cỏ xanh,
Một mồ vô chủ biết bao tình,
Phấn son nghĩ lại đà nên giá,
Hương lửa trông ra rất hổ mình.

Lại nói:
Ngâm thôi tình rất não tình,
Tưởng tới lệ khôn ngăn lệ.

Thúy Vân:
Ô hay!
Hơi đâu mà nghĩ,
Những chuyện khi không[13]!
Ai đi:
Thương người dưng[14] cho mệt tấm lòng,
Khóc ma mướn khéo dư nước mắt!

Thúy Kiều:
Lời em phân chưa xác[15],
Ý chị nghĩ còn xa,

Chẳng qua là:
Thân người khác thể thân ta,
Xưa vậy há nay không vậy (10) hay mần răng?

Vương Quan:
Chị phân dường ấy,
Em thiệt khó nghe[16].

Thôi!
Ở đây e âm khí nặng nề.
Xin về kẻo tà dương hầu tối nào!

Thúy Kiều:
Ta đi đâu mà vội,
Đường về cũng chẳng xa.
Vả xưa nay những đứng tài hoa.
Dẫu có thác cũng là linh hiển mà!

(Một trận gió thổi, Đạm Tiên hiện hồn.)

Lại nói:
Hốt nhiên nhãn kiến,
Bất giác tâm kinh.
Trận gió đâu thổi tới tan tành,
Hơi hương bỗng bay qua chất ngất.
Dấy giày in từ bước,
Ngọn cỏ xếp đòi hàng[17].
Thiệt là tinh sảng[18] hiện hồn nàng,
Mới biết anh linh soi dạ tớ đó mà!

Thời!
U hiển[19] tuy phân hai ngả,

Nhưng mà,
Chị em song cũng một thuyền.
Tạn mặt đà cho thấy dấu thiêng,

Chi nữa!
Tạ lòng phải nối thêm y vận a!

Thúy Kiều, ngâm:
Nội cỏ đã phai màu phấn đại,
Sân rêu (11) còn để dấu tinh anh[20].
Mùi hương ngui ngút hồn như tại[21].
Chín suối xin soi thấu tấc thành.

Vương Quan:
Vầng ô nay đã xiên hình[22],

Thưa chị!
Dặm thỏ khá mau bắc mặt[23] hè!

_____________________

[1] Vó cu 𨀒 駒: Vó câu, Chân con ngựa quí. Trở vó cu là đi trở về. Miền Bắc phiên âm chữ thành câu: Vó in sắc ngựa câu dòn.

[2] Tiểu khê 小溪: Dòng suối nhỏ.

[3] Thổ mộ 土墓: Mả đất.

[4] Vắng , Bản Nôm (BN) viết vắn , giọng Nam. Cách viết không chuẩn nhưng cũng không sai của người Nam

[5] Rậm rầu hoa cỏ 葚 油 花 𦹵: Nhiều hoa cỏ tàn úa.

[6] Bụi đỏ rêu xanh: 𣼯 𧺃 𧄈 撑: Trải qua thời gian mồ xiêu mả lạn cỏ tràn rêu đóng.

[7] Hai câu: Lời than rằng xưa nàng đẹp đẽ thì danh tiếng, nay chết rồi mồ mả chẳng ai coi.

[8] Chạnh lòng 𢤜 𢚸: Xót xa trong dạ. Cảm thương.

[9] Tạo hóa phụ phàng 造 化 負 傍: Con Tạo ruồng rẫy, làm tội làm tình, bỏ rơi… Lời than nhưng ngụ ý trách trời đất không công bình vi phụ nữ. Chữ phàng BN viết phàn , cách viết Nam Bộ.

[10] Tạ lòng 謝 𢚸, chỗ nầy người trước bôi sửa thành chạnh lòng. Tôi nghĩ tạ lòng hay hơn.

[11] Lễ bạc 礼 萡: Lễ cúng đơn sơ.

[12] Kiều xúc tình Đạm Tiên nhưng là thảm thương cho thân phận nữ nhi nói chung.

[13] Chuyện khi không 𡀯 欺 空: Chữ Nam Kỳ ít thấy trong văn chương.

[14] Thương người dưng 伤 𠊚 𤼸: Chuyện không hữu lý. Chẳng dính dáng đến mình sao lại khóc than ra chiều thương mến.

[15] Chưa xác 𣜾 売: Chẳng xác đáng, không trúng. BN nguyên là chưa chắc, người trước sửa lại chưa xác hay hơn thập bội.

[16] Em thiệt khó nghe 俺 寔 苦 𦖑: Em nghe trái tai quá. Lời trách nhẹ nhàng nói chị mình không hữu lý. Lý của Thúy Kiều là tương lân và nghĩ đến thân phận phụ nữ mà mình là một thành phần. Lý của Vương Quan là lý của người thường, sống vô tư, chẳng nghĩ gì xa xôi.

[17] Cả đoạn: Bỗng nhiên một cơn gió thổi qua, cỏ rẽ ra thành hàng, và vài chỗ như có dấu giày người đi. Kiều cho là hồn Đạm Tiên theo gió bay về. Đòi hàng 隊行: Mấy hàng, tiếng xưa.

[18] Tinh sảng 精 爽: Anh linh, hách hiển.

[19] U hiển 幽 顯: Cõi âm và cõi dương.

[20] Hai câu: Mồ hoang cỏ mọc làm tiêu tan vẽ đẹp người xưa nhưng vẫn còn lưu lại cái tinh anh. Phấn đại 粉 黛: Phấn son, nói chung là người phụ nữ.

[21] Mùi hương ngui ngút hồn như tại 味 香 𢢯 𩂁 魂 如 在: Thấy khói hương bay lên như thấy hồn Đạm Tiện hiển hiện. Ngui ngút 𢢯 𩂁: Nghi ngút. Khói hương lãng đãng bay lên. Mùi hương ở đâu nên hiểu là dáng khói.

[22] Xiên hình 羶 形 (vầng ô): Mặt trời đã xế bóng.

[23] Dặm thỏ khá mau bắc mặt 𨤵 𤟛 奇 𣭻 北 𩈘: Xin mau đi về. Dặm thỏ 𨤵 𤟛: Đường đi tắt, đi mau tới. Bắc mặt 𩈘: Trở lui. Lên đường.