Kiên Giang: Nhà thơ Chân Quê và Hoa Trắng Tình-yêu

Nhà thơ Kiên Giang đã đến và ởlại văn-học sử Việt Nam với tình-yêu chânquê và mối tình màu hoa trắng. Ông tên thật làTrương Khương Trinh, sinh ngày 17 tháng 2 năm 1929tại làng Đông Thái, tỉnh Kiên Giang (cùng quê với nhàvăn Sơn Nam, vùng rừng U Minh cũng là thế giớitiểu thuyết của Sơn Nam). Ngoài thơ-cađược ký dưới bút hiệu Kiên Giang khiđăng báo và Kiên Giang Hà Huy Hà khi xuất bản, ông còn làsoạn giả cải lương Hà Huy Hà và ký giảkịch trường Kiên Giang Hà Huy Hà. Các bút hiệu‘nghi-trang’ ông đã dùng trên báo chí miền Nam cộng-hòa: NgânHà, Nam Bình, Tám H., Trinh Ngọc, Bút Trời, Bút Sài-Gòn, CửuLong Giang.

Năm 1946, ông tham gia kháng chiến chốngthực dân Pháp 9 năm, trưởng Đoàn văn nghệthiếu nhi cứu quốc tỉnh Rạch Giá, làm biêntập và phóng viên báo Tiếng Súng Kháng Địchở chiến khu 9 với bút hiệu Huy Hà và ký Kiên Giang khilàm thơ. Ông đã gặp và sống gần gũi nhàthơ Nguyễn Bính trong cùng chiến khu và hai ngườiđã kết nghĩa anh em. Kiên Giang đã kể rằng ông"có nhiều ràng buộc với thi sĩ Nguyễn Bínhlúc Nguyễn Bính đến tá túc tại xóm biển Kiên Giang(Rạch Giá). Nguyễn Bính đã khích lệ tôi làmthơ" (1). Sau năm 1955, Kiên Giang trở về Sài Gònviết báo và làm ký giả kịch trường cho cácnhật báo Lẽ Sống, Dân Chủ Mới, TiếngChuông, Tiếng Dội, Thời Sự Miền Nam, Dân Ta, DânTiến, Lập Trường, Điện Tín, Tia Sángở Sài-Gòn và Miền Tây ở Cần Thơ; cộngtác với một số tạp chí văn-nghệ như ĐờiMới, Bông Lúa, Vui Sống, Nhân Loại (2), Thế Giới,Phổ Thông, v.v., soạn các tuồng kịch cảilương và bài ca vọng cổ. Ông còn là trưởng Banthơ văn Mây Tần của đài phát thanh Sài-Gòn.

Về tác phẩm, ông đã xuấtbản các tập thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím(1962, nhà xuất bản Phù Sa của nhà văn Ngọc Linh,nhà văn Thanh Nam đề tựa, 62 trang), Lúa SạMiền Nam (NXB Lá Bối, 1970. 80 trang), Quê HươngThơ Ấu (NXB Phù Sa, 1967, 63 trang). Sau 1975, ông có HoaTrắng Thôi Cài Trên Áo Tím (NXB Văn-học, 1995)được tái bản và có tuyển tập Thơ KiênGiang (Hà-nội: NXB Văn-hóa thông-tin, 1996. 107 trang). Ôngcũng đã soạn nhiều vở cải-lươngnhư Người vợ không bao giờ cưới (1958với Phúc Nguyên), Ngưu Lang Chức Nữ, Áo cướitrước cổng chùa, v.v. và một số bài tân cổgiao duyên.

Nhà thơ của hoa trắngtình-yêu

Chính thức gia nhập làng thơViệt-Nam năm 1952 nhưng thi tập Hoa Trắng ThôiCài Trên Áo Tím là tác-phẩm đầu tay của ông,được xuất bản và tái bản cùng năm 1962.Những bài thơ, trường thiên có, ngắn có, gợinếp sống thanh bình hay cảnh chiến tranh, nhưngcả tập đều đầy hương vịcủa miền Nam thôn dã, ruộng đồng. Kỷniệm thời hoa niên, những tình yêu ngang trái hay nhẹnhàng, những cảnh quê của một miền Nam chưađô thị hoá, ở khung cảnh và tâm tình conngười. Giòng sông uốn khúc chảy ra biển"vẫn nhớ rễ bần, đất Hậugiang", cây đa xiêu vẹo đầu làng, tiếngnhạc xe bò qua cầu Hàng Sanh, màu mực tím từ tráimồng tơi, người mẹ cả đời hy sinhcho chồng con, một cô gái nhỏ ngây thơ, một tà áotím kỷ niệm,...

Nổi tiếng nhất là bài Hoa TrắngThôi Cài Trên Áo Tím được dùng làm tựa tác phẩm,bài thơ mà vào đầu thập niên 1960 những tiếngngâm Hoàng Oanh, Hồ Điệp, v.v. trên làn sóng điệntrong chương trình Tiếng Thơ Mây Tần do Kiên Giangphụ trách trên đài phát thanh Sài Gòn, đã từng làm say mêthính giả một thời và được nhạc sĩHuỳnh Anh phổ nhạc. Bài Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tímlà một trong số những truyện kể củatập: Hai người học trò quen nhau, nàng hay mặc áotím và cài hoa trắng. Thời gian qua nàng lấy chồng cònchàng đi theo tiếng gọi chống giặc xâm lăngcũng là để bảo vệ những kỷ niệmtrân quý thời hoa niên. Một tình-sử đẹp thờichiến tranh chống ngoại xâm. Bài thơ Hoa TrắngThôi Cài Trên Áo Tím đã đưa nhà thơ Kiên Giang vàovăn-học sử. Một chuyện tình đẹpvới những nét thuần-khiết và chân chất. Rấtlâu sau này nhà thơ mới tiết lộ cho biếtngười con gái đối tượng tình-yêu và các chitiết chung quanh bài thơ. Một chuyện tình thậtcủa nhà thơ với cô Nguyễn Thúy Nhiều, một côbạn học cùng lớp đệ nhị tạitrường tư thục Nam Hưng, Cần Thơ. Tìnhtrong như đã với cả hai nhưng thật câm nín,chàng trai chỉ biết theo bước chân nàng những hômnàng đi lễ nhà thờ, nàng thường mặc áo tím vàcài hoa trắng. Cho đến ngày kháng chiến tháng 8-1945.Ông về quê tham gia kháng Pháp rồi gia đình ép lấyvợ. Mười năm sau gặp lại, người nữáo tím ngày nào vẫn chờ. "Hai tháng sau, ông nhậnđược thư bà Nhiều báo sẽ lấy chồngvì Kiên Giang đã có vợ. Người chồng của bàNhiều cũng tên Trinh và khi sinh đứa con đầulòng bà đặt tên tên Triều (gồm một nửaNhiều và Trinh cộng lại)" (3).

Bài Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím có haivăn-bản: bản đầu ghi sáng tác tại BếnTre ngày 14-11-1957, gồm 15 đoạn (60 câu), bản thứhai ghi ‘Gia-Định 28-5-1958’ lược bỏ mất 8câu và thay đổi một số câu và chữ dùng.Đặc biệt diễn tiến câu chuyện tình và ýtưởng ở cuối hai bản khác nhau nhưngngười đọc và thính giả đài phát thanh và canhạc đa số chỉ giữ lại đoạncuối của bài thứ nhất sáng tác vào tháng 11-1957:người nữ áo tím cài hoa trắng sẽ trởlại giáo đường, nhưng trong chiếc áo quan vàmối tình sẽ bất diệt.

Trước hết, xin ghi lại vănbản đầu trích từ tuyển tập HoaTrắng Thôi Cài Trên Áo Tím do nhà Phù Sa xuất bảnnăm 1962, chúng tôi in nghiêng những câu và chữ sẽ thayđổi ở bản sau. Đầu bài thơ ghi“Tâm-tình người trai ngoại đạo đốivới cô gái có đạo":

"Lâu quá không về thăm xóm đạo

Từngày binh lửa xóa không gian

Khóibom che lấp chân trời cũ

Checả người thương, nóc giáo đường

Mười năm trước em còn đihọc

Áotím điểm tô đời nữ sinh

Hoatrắng cài duyên trên áo tím

Emlà cô gái tuổi băng trinh

*

Trườnganh ngó mặt giáo đường

Gác chuông thương nhớlầu chuông

U buồn thay! chuông nhạcđạo

Rộn rã thay! chuông nhàtrường

Lầnlữa anh ghiền nghe tiếng chuông

Làm thơ sầu mộngdệt tình thương

Đểnghe khe khẽ lời em nguyện

Thơthẩn chờ em trước thánh đường

Mỗi lần tan lễ chuông ngừngđổ

Haibóng cùng đi một lối về

Elệ, em cầu kinh nho nhỏ

Thẹnthuồng, anh đứng lại không đi

*

Sau mười năm lẻ, anh thôi học

Nứcnở chuông trường buổi biệt ly

Rộnrã từng hồi chuông xóm đạo

Tiễnnàng áo tím bước vu quy

Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ

Chiếcáo tang liệm khối tuyệttình

-Hoa trắng thôi cài trên áo tím

Thôi còn đâu nữa tuổibăng trinh

Em lên xe cưới về quê chồng

Dùcách đò ngang cách mấy sông

Anh vẫn yêu người em áotím

Nêntình thơ ủ kín trong lòng

*

Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo

Anhlàm chiến sĩ giữ quê hương

Giữ màu áo tím, ngườiyêu cũ

Giữcả lầu chuông, nóc giáo đường

Mặcdù em chẳng còn xem lễ

Ở giáo đườngu-tịch chốn xưa

Anh vẫn giữ lầu chuônggác thánh

Nghe chuông truy niệm mốitình thơ

Màu gạchnhà thờ còn đỏ thắm

Như tình nồng thắmthuở ban đầu

Nhưng rồi sau chuyếnvu-qui ấy

Áo tím nàng thơ đã nhạtmàu

*

Banăm sau chiếc xe hoa cũ

Chở áo tím về trong áo quan

Chuông đạo ngân vanghồi vĩnh biệt

Khi anh ngồi kết vòng hoatang

Anhkết vòng hoa màu trắng lạnh

Từng cài trên áo tím ngây thơ

Hôm nay vẫn đoá hoa màutrắng

Anh kết tình tang gởixuống mồ

Lâu quákhông về thăm xóm đạo

Không còn đứng nép ởlầu chuông

Những khi chuông đổ anhliên tưởng

Người cũ cầu kinhgiữa giáo đường

"LạyChúa! con là người ngoại đạo

Nhưng tin có Chúa ngự trêntrời"

Trong lòng con, giữa màu hoatrắng

Cứu rỗi linh hồn con,Chúa ơi !!"

(BếnTre 14-11-57) (Tr. 25-27)

Trong bài này, mối tình đam mê của‘người trai ngoại đạo’ rất nồng nàn vàkết thúc lãng mạn. Ngược lại, ở bàisửa lại sau, ghi ngày 28-5-1958, thay vì nhân vật nữchết và tình tác-giả vẫn nồng cháy, thì ôngđể người trai "đã chết hiên ngangdưới bóng cờ" khi bảo vệ ngôi thánhđường và như tác giả sau này cho biết vìmuốn người yêu sống hạnh phúc bên chồng con,ông đã đổi một số câu trong bài cho hợp tìnhý câu chuyện và đoạn kết bài thơ nhưmuốn tống tiễn mối tình học trò trong trắngấy (3). Xin ghi lại nguyên bài thứ hai (trong cùng tậpdo nhà Phù Sa xuất bản, tác-giả để bài năm1958 lên đầu tập, trang 9-11 và phụ ghi là bài 1, bàinăm 1957 thành bài 2, trang 25-27).

"Lâu quá không về thăm xóm đạo

Từngày binh lửa cháy quêhương

Khóibom che lấp chân trời cũ

Checả người thương nóc giáo đường

Mười năm trước, em còn đihọc

Áotím điểm tô đời nữ sinh

Hoatrắng cài duyên trên áo tím

Emlà cô gái tuổi băng trinh

*

Quenbiết nhau qua tình lối xớm

Cổng trườngđối diện ngó lầu chuông

Mỗi lần chúa nhựt emxem lễ

Anh học bài ôn trướccổng trường

Thuởấy anh hiền và nhát quá

Nép mình bên gác thánh lầu chuông

Đểnghe khe khẽ lời em nguyện

Thơthẩn chờ em trước thánh đường

Mỗi lần tan lễ, chuông ngừngđổ

Haibóng cùng đi một lối về

Elệ, em cầu kinh nho nhỏ

Thẹnthuồng, anh đứng lại không đi

*

Sau mười năm lẻ, anh thôi học

Nứcnở chuông trường, buổi biệt ly

Rộnrã từng hồi chuông xóm đạo

Tiễnnàng áo tím bước vu quy

*

Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ

Chiếcáo tang liệm một khốisầu

Hoatrắng thôi cài trên áo tím

Giữ làm chi kỷ-vật banđầu

Em lên xe cưới về quê chồng

Dùcách đò ngang cách mấy sông

Vẫn nhớ bóng vang thờiáo tím

Nêntình thơ ủ kín trong lòng

Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo

Anhlàm chiến sĩ giữ quê hương

Giữ tà áo tím màu hoa trắng

Giữcả trường xưa nóc giáo đường

Giặcchiếm lầu chuông xây gác súng

Súng gầm rung đổgạch nhà thờ

Anh gom gạch đổ xâytường lũy

Chiếm lại lầu chuônggiết kẻ thù

Nhưngrồi người bạn đồng trang lứa

Đã chết hiên ngangdưới bóng cờ

Chuông đổ ban chiều, emnức nở

Tiễn anh ra khỏi cổngnhà thờ

Hoatrắng thôi cài trên áo tím

Mà cài trên nắp cỗ quan tài

Điểm tô công trậnbằng hoa trắng

Hoa tuổi học trò mãithắm tươi

*

Xe tangđã khuất nẻo đời

Chuông nhà thờ khóc ...tiễnngười ngàn thu

Từ đây, tóc rũ khănsô

Em cài hoa trắng trên mồngười xưa"

(Gia-Định28-5-58) (Tr. 9-11)

Bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tímcốt kể một chuyện tình riêng tư đã trởthành một bản tình ca đẹp. Ngoài ra, trong mộtsố bài thơ khác, Kiên Giang đã tỏ những mốitình đơn sơ, thoáng qua, v.v., như trong bài QuánGiữa Đồng:

"Trà Mi có quán giữa đồng,

Cócô gái nhỏ má hồng hữu duyên;

Hữuduyên mà lại chín chuyên,

Nhưnglòng khép kín như phên quán này .

   Trưa vào đúng buổi cày,

Tôivào quán đợi xế dài ..., cày dâm.

Hômnào trời đổ mưa dầm,

Tôivào hơ áo... đợi tàn cơn mưa .

   Chiều chiều gió đẩygió đưa,

Nhìnxem lá mạ mà mơ duyên nồng.

Thángba, cá rốc lên đồng;

Trailàng đã rạ kêu công đầu mùa .

Chiềurồi! ... đồng vọng chuông chùa;

Càychưa hết việc... mặc giờ hoàng hôn.

Càytrưa thiếu nước thiếu cơm,

Ghévào quán nhỏ đỡ cơn đói lòng.

Cámơn cô quán giữa đồng,

Quánnghèo tuy hẹp, mà lòng không thưa .

    Từ khi giặc đốt quánxưa,

Thiếunơi trú nắng, đụt mưa qua ngày .

Tôibuồn khi thả vốc cày,

đànhngồi dang nắng... đợi chiều cày dâm.

Trờidù mưa mới lâm râm,

Tôilo thiếu lửa ..., hơ chăn áo nghèo (...)".

Hay những mối tơ duyên quê đơnsơ được kể lể trong bài Cầu Tre.Đặc biệt mở đầu bài thơ, Kiên Giang ghilời nhắn "Gởi Thùy Nhiêu và thân tặng nhữngbạn đường đang sống quay cuồnggiữa đô thành loan vết xe ngựa và cát bụi,chắc không bao giờ hướng mắt về miềnquê để mà sống lại với mối tình 'cầutre' ..." (4). Phải chăng Thùy Nhiêu là Nguyễn ThúyNhiều, người nữ của Hoa Trắng Thôi Cài TrênÁo Tím? Vì bài được ghi làm ở “Rạch Giá,Thượng tuần tháng Chạp, 1953” tức lúc ông cònở trong chiến khu, xa người yêu!

"...  Nhà anhở kế bên cầu,

Nhà em ở cuối đầu cầu bênsông.

Bênsông cứ mỗi hừng đông,

Emra vo gạo, bến sông bên cầu .

Anhvừa mở cổng thả trâu,

Thấyem, anh vội xé rào nhìn em.

Rồiqua cầu nói với em:

"Côvo nếp anh thèm mùi xôi"

Vìanh, khi mới hừng trời,

Quacầu, em biếu dĩa xôi muối mè .

Cầutre lắc lẻo cầu tre,

Conđò chở tấm tình quê qua cầu ....

Từđây cứ mỗi mùa cau,

Anhqua cầu để bẻ cau cho nàng.

Khinào trầu hút trầu khan,

Anhqua xin lá trầu vàng bên em.

Khimùa cấy hái "đông ken",

Ruộnganh em cấy, đất em anh cày .

Vầncông lối xóm tiếp tay,

Kếttình lưu luyến gái trai đôi làng.

Đôitim trang lứa nhịp nhàng,

Hoàtheo nhịp sóng lúa vàng mênh mông.

Đôilòng cách một dòng sông,

Tơhồng chưa buộc, tơ lòng đã xe .

Cầutre lắc lẻo cầu tre,

Duyênnghèo đầm thấm, tình quê nồng nàn.

Trongtình yêu nước, yêu làng,

Cótình chăn gối, đá vàng lứa đôi .

Mẹchàng cậy mối cậy mai,

Tặngquà lễ nói một đôi bông vàng.

Haibên cô bác họ hàng,

Chọnngày lễ cưới qua rằm tháng Giêng.

Bỗngrồi lửa cháy xóm giềng,

Cầutre gãy nhịp gục nghiêng giữa dòng.

Lửatràn lan cháy bên sông,

Máupha nước mắt đỏ lòng trường giang.

Giặctràn về bắt sống nàng (. . .) ".

Sống đời vợ chồng, nhàthơ có những giây phút chạnh lòng thươngngười vợ hiền, sau những vui chơi vớibè bạn, như đã được biểu tỏ trongbài Mới Cưới cảm hứng từ ý thơ"nàng ngỡ vợ chồng như mớicưới":

"Thành đô đêm ấy...trờimưa lớn

Tơlạnh giăng sầu xóm ngoại ô

Cómột linh hồn say đọa lạc

Trởvề hốc hác giữa cơn mưa

Nghiêngnghiêng chiếc bóng xô phiên cửa

Rónrén vào trong bóng tối dày

Tócrối còn tanh mùi phấn rửa

Mặtngười úp xuống giữa bàn tay

Ngườiấy khoát rèm nhìn chiếu lạnh

Kìangười vợ yếu ngủ mê say

Đôitay thon nhỏ kê làm gối

Haiđứa con gầy nằm sải tay

Thấychăng con bú trong cơn ngủ

Nútmạnh đôi đầu vú héo hon

Aibiết mẹ gầy trong giấc ngủ

Vẫnsang dòng máu để nuôi con (...)" (1956).

Nhà thơ chân quê

Quê hương, dân tộc, tình cảm yêunước rõ nét hoặc bàng bạc trong nhiều bài thơcủa ông. Lời lẽ nói chung chân thành và giản dị,không làm dáng, không phức tạp và đẽo gọttiếng nói, lời văn. Lời và ý một nhịp, chânchất như con người vùng đất Hậu-giang.Thơ Kiên Giang mang tính truyện kể hơn là vănchương điêu luyện. Hãy nghe lời của mộtchàng trai ghé xin nước ở nhà một cô gái giữatrưa nắng gắt:

"Trời đang đứng bóng trưagay gắt

Anhghé nhà em xin nước mưa

Ngỡlạc Đào Nguyên hay Thượng Uyển

Khibông sứ nở hội đương mùa

Uống nước trời mưa anhnhư tưởng

Uốngmùi hương tóc gái ngây thơ

Nướctrong veo quá, không men rượu

Mớiuống lòng đà ngây ngất say

Gióthổi tóc bay hương phảng phất

Giảvờ anh gợi "Nước mưa thơm"

Hươngxông từ tóc lên da thịt

Vìmá hồng chưa có dấu hôn

Vuốt tóc liếc nhìn như bẽnlẽn

Môicười nửa nụ trách người quen

"Cáianh thi sĩ đa tình quá

Chouống no rồi... chọc ghẹo em"

Cổngđã khép rồi bông sứ rụng

Anhlên đường giữa nắng ban trưa

Lòngcòn say ngất dư hương cũ

Hươngtóc hay là hương nước mưa". (HươngNước Mưa)

Thề giới thơ của Kiên Giang cómột phần thuộc về một thời học trò'Mực tím phai rồi anh vẫn nhớ / Mùa hoa điệpnở, mộng ngày xanh":

"Tôi đã tương tư màu mựctím

Từngngày mới viết chữ A, B

Congqueo dòng bút tình thơ dại

Chữnghĩa đẹp trong nét vụn về

Mỗilần trái mồng tơi chín

Anhhái làm mực tím

Tặngcô bạn nữa ve bầu

Côđem mực tím nhuộm màu áo thơ

Từngày nhuộm áo màu tim tím

Bèbạn gặp em ở cổng trường

Thườnggọi: Này cô em áo tím

Choanh nhểu mực viết văn chương

Mỗilần tan học tung tăng bước

Emđụt mưa chiều trú nắng trưa

Dướilá mồng tơi râm bóng mát

Ngồinghe mẹ kể chuyện đời xưa

Mẹnghèo chăm bón vồng khoai tím

Háilá mồng tơi bán chợ làng

Đổigạo mua đèn cùng giấy mực

Nuôicon ăn học, mấy năm trường...(Màu MựcTím)

"Từ khi cô giáo tập em đồ

Khôngkê giấy chặm em vô ý

Đểdấu tay lem vở học trò" (Đồng Xu GiấyChặm)

Bài thơ lục bát Tiền Và Láđược viết năm 1956, về sauđược nhạc sĩ Bắc Sơn phổnhạc, theo giai thoại đã được nhà thơđề tặng: "Tặng thi sĩ Nguyễn Bínhđể nhớ ngày tá túc ở xóm biển Kiên Giang".Nhà văn Xuân Vũ trong cuốn Những Bậc ThầyCủa Tôi có kể giai-thoại về Kiên Giang:"Người thứ hai tôi gần gũi là Huy Hà. Anh họcở trường Bassac và sớm mê thơ Nguyễn Bính.Con gái của anh hiện nay ở Hoa Kỳ, đã cho tôibiết là thuở còn đi học, anh đã từng lén nhàxúc gạo đem cho nhà thơ giang hồ nghèo Nguyễn Bính,khi thi sĩ lưu lạc về bờ biển Rạch Giákhoảng năm 1942" (5). Tiền Và Lá là chuyệnthời thơ ấu chơi trò trẻ con nhưng đãẩn ý và ám ảnh về giàu-nghèo khơi nguồn cho ýthức xã hội sau này. Trên tạp chí Thời Tập,Kiên Giang cho biết ông không ưng ý nhưng thích bài thơnày vì bài đã gói ghém một chút tình thơ dại (6).Lời đề tặng khác mở đầu bài thơ:“Riêng tặng các bạn đã dang dở với mối tìnhđầu ...”.

"Ngày thơ, hớt tóc "miểngrùa"

Ngàythơ, mẹ bắt đeo bùa "cầu ông".

Đôita cùng học vỡ lòng,

Dắttay qua những cánh đồng lúa xanh.

Đôinhà cũng một sắc tranh,

Chianhau từ một trái chanh, trái đào .

Đêmvàng so bóng trăng cao,

Ngồibên bờ giếng đếm sao trên trời .

Anhmoi đất nắn "tượng người",

Emthơ thẩn nhặt lá rơi… làm tiền.

Mỗingày chợ họp mười phiên,

Anhđem "người đất" đổi"tiền lá rơi".

   Nào ngờ mai mỉa cho tôi,

Lớnlên em đã bị người ta mua .

Kiếptôi là kiếp làm thơ,

Vốnriêng chỉ có muôn mùa lá rơi .

Tiềnkhông là lá em ơi

Tiềnlà giấy bạc của đời in ra .

Ngườita giấy bạc đầy nhà,

Chonên mới được gọi là chồng em.

Bâygiờ những buổi chiều êm,

Tôigom lá đốt, khói lên tận trời!

   Ngườimua đã bị mua rồi,

Chợđời họp một mình tôi… vui gì!" (Bến KiênGiang 1956)

Kiên Giang đã chịu phần nào ảnhhưởng thơ Nguyễn Bính khi viết về tình yêu vàđồng quê - hay đúng hơn nên nói cả hai ôngđều chịu ảnh hưởng thơ ca đạichúng. Dù sao, 'lục-tỉnh tính' ở ông vẫn rõ nét vàđánh dấu riêng của thổ ngơi, cảnh sắcvà ngôn ngữ vùng Hậu-giang. Bài Lúa Sạ Miền Nam trongtập thơ cùng tựa, vẽ lại bức tranhmiền Nam ruộng đồng thẳng cánh cò bay:

"Mời bạn về thăm quê hươnglúa sạ

Ngắmbiển trời Đồng Tháp, đất An Giang.

GòÓc Eo còn dấu vết một kho tàng

Nhớthuở bòn vàng những năm đồ khổ

Lặndưới bùn sâu mở đường hơi thở

ĐưngBa Thê nhớ cỏ lúa Láng Linh

BảyNúi gọi mây dựng bức tường thành

Ngăngió độc cho xanh màu lá mạ

Mời bạn về ôm chân cây lúa sạ

Đểreo mừng đau xót với Hậu Giang

Mẩytrăm năm từ thuở mới khai hoang

Nhạcrừng trâu vượt trời nghe đồng vọng

Gọinhau về Miền Tây chân trời mộng

Chàotay chai rạch đất thế lưỡi cày

Thủytriều lên xuống vơi đầy

Mồhôi đổ xuống, đất lầy trổ bông

Mời bạn về thăm vùng trờiđất đứng

Đểlắng nghe mạch sống chảy âm thầm

Dướimặt nước, nhạc ngầm gợn dư âm

Chuyểnthành sóng dập vờn theo tóc lúa

Lúayêu đồng nên dịu dàng ca múa

Trênđịa đàng thơm ngát hương phù sa

Cátôm kéo về đại hội hải hà

Camừng lúa với "Trường ca sung túc"

Mặtđất rộng phơi da đầu dướinước

Chorễ dày đan tóc lúa rối đoanh

Giógợn mặt biển xanh

Sóngxao tóc lúa vây quanh xóm làng

 (...) Lúa sạvượt trời cao đất đứng

Bừngbừng hào khí ngút trăng sao

Tráitim bằng thép, chân bằng đá

Nướcxoáy lòng sông cuộn máu đào

Màu Sóc nâu Nàng Tây gạo Điểm

Ngànnăm bốc khói bếp phù sa

Hãyvề sông Hậu sông Tiền cũ

Dựnglại quê hương dưới mái nhà

Dầu ăn gạo Mỹ chở tàu binh

Đừngphụ gạo quê đất nước mình

Lúasạ vẫn còn nguyên rễ mẹ

Địađàng còn rộng chân trời xanh". (Miền Tây mùanước lụt 1964).

Bài Đẹp Hậu-Giang như mộtthiên anh hùng ca (viết “để tặng ngườiViệt yêu Hậu-Giang”) đề cao con ngườicủa vùng đất đã hy sinh và tranh đấu vớingười và nghịch cảnh để cóđược như hôm nay.

"(...) Nước chảy một dòng rabiển cả,

Vẫnmang tình nước Cửu-Long giang.

Sôngơi ! dù nước ra khơi biển,

Vẫnnhớ rễ bần đất Hậu-Giang ...".

Bài thơ Bánh Ống Trà Vinh cho biết mónăn quê nhà lúc nào cũng ngon hơn nếu phải sovới những đặc sản của những vùngđất khác, vì liên hệ đến con người,cảnh vật thân quen :

"Tôi yêu kiểu áo "tầm vong"nhỏ

Đôimắt đen huyền cô gái lai

Đôimái chùa cong như cánh phượng

Gióbay cờ phướng đẹp mây trời.

Tôi yêu hơi nước trong nồiđất

Nấuchín mùi thơm bánh Phú Vinh

Ládứa tiên thanh màu lá mạ

-Cô em mặc áo cũng thiên thanh.

 (...) Hơinước còn thơm mùi bánh ống

Cònthơm tà áo sắc thiên thanh

Côem bán bánh sao hiền quá

Lónglánh mắt huyền in bóng anh.

Vườn bưởi Biên Hòa tuy ngọtlịm

Cũngkhông bằng nửa múi Thanh Trà

Vìhương tóc rối thơm bông bưởi

-Cô gái Trà Vinh đẹp mặn mà.

Về xứ Trà Vinh ăn bánh ống

Thươngmàu lá dứa, áo thiên thanh

Gióđưa hương bưởi vào hơi thở

Thươngxứ thương luôn gái Vĩnh Bình" (Lúa SạMiền Nam)

Thơ Kiên Giang mang đặc tính giảndị, mộc mạc, bút pháp đặc-thù của miềnNam lục-tỉnh:

"Hương cau thơm phức ngôi saomẹ

Thơmngát mái nhà, thơm áo cơm

Conthở trong mùi thơm bát ngát

Thịtda mái tóc quyện mùi thơm

(…)Nhớ mùa cau trổ trong vườn cũ

Mẹquét lá vàng ủ lấy phân

Khóitrắng lên trời như tóc bạc

Conngờ khói tóc quyện mây Tần …"

VũngTàu một giờ đêm 13-10-61 (Khói Trắng)

Dưới Giàn Mồng Tơi, vớiđề tặng "Kính tặng Mẹ". Nơingười mẹ sinh sống 'hai vai gánh nợ conchồng / Tay nhen bếp lửa, tay bồng con thơ":

"Mẹ già nấu rượu nếpthan

Kiếmtiền trả bớt nợ nần thâm niên

Tránnhăn cày nếp ưu phiền

Bàntay nào sạch ? Đồng tiền nào dơ ?

 (...) Hai vai gánhnợ con chồng

Taynhen bếp lửa, tay bồng con thơ

Thởdài theo điệu ầu ơ

"Lấychồng xa xứ, bơ vơ một mình

Bênven rừng xứ U Minh

Trọnniềm dâu thảo, trọn tình mẫu thân

Bâygiờ héo hắt tuổi xuân

Sáumươi năm, sáu mươi năm mỏi mòn

Vầngtrăng Xẻo Đước thôi tròn

Đườngcâu đă cuốn, lối mòn đã qua

(...) Ới sông Cái Lớn

Ớingọn bần gie

Lửađom đóm chẳng lập loè

Baogiờ mới thấy lối về quê xưa" (LúaSạ Miền Nam)

Hình ảnh người mẹ Việt Namđược vinh danh trong bài Tiếng Ru Ba Miền:

"Tiếng mẹ ngân nga triềunước lớn

Điệuvành khuyên, âm hưởng tiếng chim oanh

Mâykhông đuổi cánh cò bay mỏi gió

Đấtmiệt vườn mở rộng chân trời xanh

Tiếng mẹ ra mở đường baycánh gió

Kếttụ mùa xuân trải bốn ngàn năm

Chìmxuống đất ngấm vào đáy thâm tâm

Sứcmạnh chìm ngụy trang trong tiếng nấc

Mắtchìm xuống mà tâm hồn bất khuất

Tócngả màu vì bạc trắng niềm tang

Vạtáo tứ thân, manh áo vá quàng

Đềuin ngầm bản đồ cong chữ S

Tiếng mẹ ru sình non thành đất thép

TrườngSơn gầy giương đòn gánh dẻo dai

Mốctrắng mồ hôi lưng áo vá vai,

Lónglánh kim cương trái tim mẹ Việt

Tiếngru vượt trời cao ôi diễm tuyệt

Cuộnsông Hồng uốn khúc Cửu Long Giang.

Gõxương khô gọi hồn phách mồ hoang.

(...) Tiếng mẹ ru kéo lơi vòng kẽmsét

Phávòng đai thế kỷ chiến tranh đen

Khôngxưng danh mà đời vẫn gọi tên

MẹViệt Nam: Mẹ oai hùng vạn kỷ

Đàncon mẹ mang tâm hồn thi sĩ

Taylàm thơ tay mở cánh thiên thần

Múabút so gươm diệt lũ hung tàn

Dựngbao gấm mùa xuân trong huyết sử

Thếnước lòng dân ào ào thác lũ

TổQuốc mình bất tử vượt thời gian

Miền Trung sỏi đá

Lênnhịp hò khoan

Bánhxe gió vẫn chuyển luân khí hùng

Điệuru cay đắng vị gừng

Mưatrong nắng đục, nhạc lừng sông Hương

Tiếngngâm sa mạc

Giọngđiệu à ời

Ngànnăm còn nức nở lời Nguyễn Du

HồnĐồ Chiểu quyện cỏ khô

Ngànnăm dậy sóng tiếng ru đồng bằng. (Đêm12-12-68)

Thơ Kiên Giang nhiều tình tự dântộc. Bài Tình Quê Tình Nước mà năm sáng tác khi thì ghinăm 1954, khi 1955, có thể vì ý những câu chót đãhoặc sẽ khác:

"Ai yêu nước Việt Nam hơnngười Việt,

Nhaurún chôn sâu giữa đất lành.

Bôngtrái muôn mùa không ngớt chín,

Sôngđầy nước biếc, núi xanh xanh.

Luống cày mầu mỡ thơm mùiđất,

Vunbón rẫy vườn bông trái thơm.

Noấm cũng nhờ bông với trái,

Áođời vẫn ấm, hột cơm ngon.

Kìa nước trường giang chảyuốn quanh,

Giữagiòng sông mát bóng dừa xanh,

Cócô gái trẻ nâu tà áo,

Chèochiếc đò ngang trước bến đình.

Nào ai lăn lóc, xa quê cũ,

Mêchốn phồn hoa trắng bụi đường;

Giâyphút chạnh lòng sao khỏi nhớ,

Nhớnhà, nhớ đất, nhớ quê hương.

Nhớ quê có những đêm trăng sáng,

Sángcả vườn xanh, cả ruộng vàng.

Contrẻ quây quần theo gót mẹ,

Lênchùa cúng Phật để dâng hương.

Nhớ tiếng võng đưa trầmđiệu nhạc,

Hoàtheo tiếng hát giọng ầu ơ ....

Từmôi người mẹ thân yêu quá,

Gợilên bao tình thuở ấu thơ .

Tiếng chày nằng nặng nện khônggian,

Cùngtiếng gà trưa gáy trễ tràng,

Tiếngtập đánh vần cùng nhịp thước,

Buồnnhư nước chảy giữa trường giang.

Ai quên cho mượn mái tranh nâu,

Luốngđất bờ ao với nhịp cầu;

Mồmả ông bà nằm giữa đất,

Lòngngười lòng đất cảm thông nhau .

Quê hương là máu, là xương thịt,

Nướcmắt mồ hôi của giống nòi,

Tranhđấu từ bao nhiêu thế kỷ,

Bảotồn gấm vóc đến muôn đời .

Còn sống ngày nào trên đấtnước,

Nếuai xâm chiếm đến quê hương,

Tìnhquê sẽ hoá ra tình nước:

Tìnhnước đúc thành súng với gươm.

Lòng dân vũ trang bằng tình cảm,

Taydân vũ trang bằng súng đạn.

Dânđứng lên siết chặt quân hàng:

Giặcvào đây giặc sẽ rã tan ...

Lờithơ như ngôn ngữ nói của đờithường:

"Phạtanh ngâm nước vô lu

Bẻtàu chuối hột che dù cho em" (Ngựa Trúc)

"Tuổi hai mươi lòng haimươi,

Làbông lúa mới là trời bình minh

(...)Người hùng thế hệ: người trai Việt,

Khôngchỉ hùng bằng xác thịt thôi .

Bằngcả tâm hồn và khối óc.

Ngườihùng thế hệ Việt Nam ơi! " (Người HùngThế Hệ, 1956)

Kiên Giang nhập dòng thơ quê hương vàtình tự của con người ruộng đồngcủa những Anh Thơ, Bàng Bá Lân, v.v. Thơ của KiênGiang mang tính chân quê và nhiều tình cảm – đôn hậu,tự nhiên, như tiếng lòng của con ngườinhững vùng sông nước ruộng đồng bao la.Thơ ông có nhiều câu được phổ biếnrộng rãi, đó là lý do khiến một số câu thơcủa ông bị hiểu lầm là ca dao, như:

- Ong bầu vờn đọt mù u

Lấy chồng càng sớm tiếng ru càngbuồn ...

- Đói lòng ăn nửa trái sim

Uống lưng bát nước đi tìmngười thương.

Tính-chất bình dị đó của ngônngữ thơ Kiên Giang được nhà văn Sơn Namcắt nghĩa: "Vốn liếng về từ ngữngười Kiên Giang rất ít, hàng ngày sống lân la vớingười Hoa bán tạp hóa và người Khơ-me làmruộng. Ở đây có thể nói tiếng Việt khôngphát triển, lại thêm "tiếng lóng" màngười địa phương khác khó chấpnhận. Vốn duy nhất là ca dao được mẹdạy cho, từ thuở ấu thơ. Vốn quantrọng hơn vẫn là cái tâm, lòng yêu nước, muốngiới thiệu tâm hồn người dân nghèo xóm mìnhvới cả nước, cùng chia sẻ buồn vui (7).

Thơ Kiên Giang bình dị, tự nhiênvừa mang tính thời sự vừa trở vềnguồn, cho nên tuy cùng thời với những nhà thơSa-Giang Trần Tuấn Kiệt, Thẩm Thệ Hà, ThanhViệt Thanh, v.v. nhưng thi-ca của Kiên Giang mang tínhđộc đáo của riêng ông.

 

Chú-thích:

1- "Kiên Giang và Hoàng Trúc Ly - Tay đôi".Thời Tập 9, 7-1974, tr. 13.

2- Trên tạp chí Nhân Loại, ngoàithơ, Kiên Giang còn viết bình luận và bút ký như bài''Quê Ngoại" (Bộ mới, số 100, 2-5-1958):"Còng cọc bắt cá dưới sông / Mấyđời cháu ngoại giỗ ông bao giờ".

3- Trần Hoàng Nhân trong bài viết "Nhàthơ Kiên Giang-Hà Huy Hà: tình yêu mãi cài trên áo tím"(lethieunhon.com) đã kể lại chi tiết câu chuyệntình hoa trắng và đã tiết lộ danh tính ngườinữ này là Nguyễn Thúy Nhiều, mất năm 1998.Đến ngày 18-3-2008, trong khuôn khổ một chươngtrình thơ nhạc mừng thượng thọ 81 tuổicủa nhà thơ - soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà tạiTrung tâm Văn hóa quận Phú Nhuận, chính nhà thơ KiênGiang đã công bố di ảnh bà Nguyễn Thúy Nhiều, nhânvật trong bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím:"Đêm lễ qui tụ nhiều nhà thơ, nghệsĩ nổi tiếng, lãnh đạo ngành văn hóa vàđông đảo khán giả. Tại đây, sau hơn 60năm, nhà thơ Kiên Giang đã bất ngờ công bố diảnh nhân vật cô gái xóm đạo trong bài thơ HoaTrắng Thôi Cài Trên Áo Tím từng được nhiềuthế hệ thanh niên yêu thích từ năm 1943 (?, 1957). Ôngkể thuở mới lớn, ông thường đi sau bàthầm thương trộm nhớ và... làm thơ. Ông và bàchưa hề nắm tay nhau, nhưng con cháu bà ngày nayđều biết và quí mến ông" (Tuổi Trẻ,20-03-2008).

4- Trích từ Phạm Thanh. Thi NhânViệt-Nam Hiện Đại (Los Alamitos CA: Xuân Thu tb,1990). Tr. 564.

5- Xuân Vũ. Những Bậc ThầyCủa Tôi. Arlington, VA: Tổ hợp xuấ́tbả̉n miề̀n Đông Hoa Kỳ̀, 1998.

6- Thời Tập. Bđd, tr. 17.

7- Sơn Nam "Cùng bạn đọc".Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím (NXB Văn Học, 1995).