Thi ca miền Nam 1954-1975

Tháng 7 năm 1954, cuộcchiến-tranh Đông-dương chấm dứt,nước Việt-Nam bị chia đôi; miền Namtrở thành vùng đất của tự do và dân chủ. Trước thực tại mới, những nhà thơ bamiền tập hợp ở bên này vĩ tuyến 17 đã háo hức sángtác, lên đường, làm nên một nền thi-cađộc đáo và dựng xây một nềnvăn-học nhân bản và khai phóng. Nếu về phương diện chính-trị, quốc gia Việt-NamCộng-Hòa là một thực thể mới, thì vềvăn-học nghệ-thuật, cái mới cũng sẽlấn át cái cũ và cái có sẵn, với những vănnghệ sĩ mới: mới trong tinh thần trách nhiệmvà xây dựng!

1- Thơ Tự-Do

“Nhóm” Sáng Tạo đã góp phần làm mớivăn học về văn cũng như thơ, về hìnhthức, thể cách cũng như nộidung. Tạp chí Sáng Tạo (rồi Thế Kỷ HaiMươi, v.v) đã đến với độc giảvới những tác-giả mới và những bài thơ mới (với đề mục ‘thơ tự do’).Trong số, Thanh Tâm Tuyền có những bài thơ tự do,không vần, bất ngờ về ý và chữ dùng, sau xuấtbản Tôi Không Còn Cô Độc (1956) và Liên, Đêm,Mặt Trời Tìm Thấy (1964). ThơThanh Tâm Tuyền dùng ngôn ngữ để phá hủy ngônngữ, phó mặc mạch thơ, nhạc điệucũng như ngôn ngữ thơ, tự do trôi chảynhư sự vật vô tri vô nghĩa từ nguyên thủy.Với Nguyên Sa, thơ tự do là thơ phá thể, khôngkhuôn khổ (1), trong khi Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn,” thơhôm nay không dừng lại ở thơ phá thể, thơ hômnay là thơ tự do” mà cao điểm sẽ là thơvăn xuôi (2). Khi thơ Tự Do đã thành công gâytiếng vang thuận tiện, nhất là với những người làm thơ mới ra đời, nhóm SángTạo bèn đi xa hơn phủ nhận giá trị thơvăn tiền chiến. Nhiều nhóm văn nghệ sĩđãlên tiếng phản đối, nhất là ở Huế. Dùgì thì Thanh Tâm Tuyền rồi Nguyên Sa đã khai pháo mởđường cho dòng thơ sẽđược gọi là Thơ Tự Do. Thơ tự donguyên thủy là phản ứng lại Thơ Mới vàthơ thời tiền chiến, một vận độngđãbắt nguồn từ thời kháng chiến, vớiHữu Loan và Màu Tím Hoa Sim, v.v.

Đến Nguyên Sa, thơ chủ yếu là thơ tình-yêu rõ nét, đặc thù, cá nhân,có hình dáng nhưng cũng là một tình yêu phứctạp, đa dạng nhưng lã lướt,như trái tim người trẻ tuổi thấm nhuầnhai văn hóa sống vào buổi giao thời củanhững năm cuối thập niên 1940 và đầu 1950.Thơ tìnhyêu của Nguyên Sa là một thứ tình yêu thuần chất,trữ tình thường nhật, hiện sinh.Khác thơ tình hiếm hoi của Thanh Tâm Tuyền, thơ Nguyên Sa không làm ra để gây băn khoăn hay suynghĩ. Thanh Tâm Tuyền phải lo cho sứ mạng vănnghệ do đó bỏ quên tình yêu (“Tôi không ngợi ca tình yêu,tôi nguyền rủa tình yêu (...) Thơhôm nay không cần đến Tình Ái và khi Tình Ái đến vớithơ hôm nay cũng với vẻ tiều tuỵ khốnkhổ chịu đựng hất hủi như cảmột cuộc đời...”(3). Trong bài”Nỗi buồn thơ hôm nay”, Thanh TâmTuyền đi xa hơn khi ông hạ giá tình yêu:” tình áicũng bị dùng làm phương tiệnkhám phá đời sống, khai quật ý thức...”. Do đó, cũng như các” nhà thơ hôm nay” của hai thập niên 1950 và 1960, Nguyên Sa chống trữ tình và lãng mạn, chốngcả tình ái theo nghĩa thường vì theo ông, lãngmạn là” sự xúc động quá mãnh liệt, sựtrữ tình bi thảm hoá” (4). Yêu nhưng không lãng mạn, cảkhông thác loạn của thơtiền chiến. Tình với ngônngữ mới, cung cách mới, thơmộng nhớ nhung mới và khác, có vẻ thực tếvà thành thật hơn!

Tình yêu ở Nguyên Sa có thểbắt đầu bằng mong nhớ, đợi chờ vànhững lời trách móc tự nhiên:

“Có phải em về đêm nay?
Trên con đường thời gian trắctrở
để lòng anh đènkhuya cửa ngõ
ngọn đèn dầulụi bấc mắt long lanh

(...) Em đừng trách anh để lòng mìnhtủi cực
dến ngại ngùng dù nắng dù mưa
sao em không về
để dù nắng dù mưa
trong thời gian có sắc mầucủa những thiên đàng đổ vỡ...” (Có PhảiEm Về Đêm Nay)

“Em” thời nay thành” con chó ốm, con mèo ngáingủ” và”  mắt cá ươn”; không còn là” mắt xanh là bóng dừa hoang dại”(Đinh Hùng),” em đi áo mỏng phô hờn tủi” (QuangDũng). Tóc của” em” chỉ là” tóc ngắn”(Áo Lụa Hà Đông). Tình yêu đếnvới nhà thơ nhưmột hạnh phúc, một tròn đầy vớinhững cảm xúc thật với da thịt cũng nhưtrong tâm hồn.

Thơ tự do của Nguyên Sa có tiết tấu và nhạc điệuđặc biệt chưa thấy trước đó. NguyênSa lại có tài sử dụng nhiều hình ảnhmới và lạ. Nào” chải tóc em bằng năm ngón tay”,nào” lệ trắng gạo mềm”,” da em trắng anhchẳng cần ánh sáng / tóc em mềm anh chẳng thiếtmùa xuân”,” tóc màu củi chưa đun”,miệng” chim sẻ”, áo” sương mù”,” bàn tay chim khuyên”(Nga) hay” sương gió trầm tư thêu thùa má ướt”,v.v.

“... Người về đâugiữa đêm khuya dìu dặt
Hơi thở thiên thần trong tócẩm hương xưa
Người đi về trờinắng hay mưa
Sao để sương gió trầm tư thêu thùamá ướt...” (Đẹp)

Muốn” phá thể” và” tự do” nhưng thơ Nguyên Sa có lời vàchất nhạc rất nhẹ nhàng, rất Việt Nam.Ông vẫn sử dụng lại những ước lệcủa thi ca cổ điển như” thuyền ghé bến”,tay” lá sen”, mắt” mt vừng trăng sáng”, hay của thơmới như” gió heo may”. Thành ra Nguyên Sa có những câuthơ mà ngôn từ như có âm hưởng ca dao dù đã đượctân hóa theo thời đại:

“... Paris có gì lạ không em?
Mai anh về mắt vẫn lánh đen
Vẫn biết lòng mình là hươngcốm
Chả biết tay ai làm lá sen...” (Paris Có Gì LạKhông Em?).

Thơ tự do của Nguyên Sa thời ra đời trên NgườiViệtSáng Tạo đã thuyết phục người thưởng thức văn nghệ rằngthơ tự do có thể sống động, rằngthơ tự do cũng có thi-tính. Sau thử nghiệmcủa Nguyễn Đình Thi trong kháng chiến chưađủ thuyết phục, thì giờ đây là một xácđịnh mới với một thẩm-mỹ mới,nhận định mới. Thơ tự do của Nguyên Sanhờ giàu nhạc tính, lại đơn sơ, truyềncảm và hãy còn chứa đựng tâm hồn Việt Nam dođó đã sống lâu hơn đếnngày nay và chắc cả sau này; trong khi thơ tự docủa nhiều nhà thơ thời ông đã và đang đivào quên lãng. Nếu lúc đầu thơ tự dođược cổ võ như mộtvượt thoát khỏi những bó buc và giới hạncủa luật thơ thì nay bài thơtự do nào còn gi” được vần và nhạc và hìnhảnh lại tiếp tục được yêu thích. Trongtrường hợp Nguyên Sa, phủ nhậnThơ Mới và tiền chiến đồng thờicổ xúy thơ tự do và phá thể, nay phân tích lại thì Nguyên Sa đãkhông thật sự đi xa trên con đường thơtự do và vô tình thơ ông lại làgạch nối với thơ tiền chiến và dòng thơ kháng chiến trước đó. Cho đến khitạp chí Sáng-Tạo đình bản hẳn, những nhà lýthuyết cổ võ thơ tự docủa nhóm đã vẫn không thuyết phục thật sựgiới sáng tác cũng như giớithưởng thức văn nghệ. Thanh Tâm Tuyền cóvẻ là người cuối cùng lên tiếng khi cho rằngngười làm thơ tự do vì sống thời gian hôm nay và dùngthanh âm ngôn từ để khám phá chính mình. Dù sao đinữa, cùng với Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa đã đemlại niềm tin nơi thể thơ tự do, thởcủa hai ông đã chiếu sáng trên nền trời thi caViệt Namhậu chiến. Chính sự tiếp nối vàthành công của những nhà thơ khác đã đưa thơ tự-do đi xa.

Cũng thuộc nhóm Sáng Tạo nhưnghơi thơ mệnh yểu, Quách Thoại lên án chiến tranh, bạo lực, đồngthời chào mừng tự do và đòi hỏi dân chủ. Cõitự do thật vô cùng quyến :

“Cờ dân chủ ta bướctới tương lai đầy ứ
Phố lớn cườiđại lộ hát nghênh ngang
Xã hội đi về, vũ trụ rộn ràng
Nhà mới dựng, gỗ ngói còn thơmlắm
... Đường rộng mở thênh thangtrời dân chủ
Ôi! Tự do do thật vô cùng quyến rũ!”.

Bài Sáng Tạo ghi dấu sinh hoạt của nhómtạp chí cùng tên:

“Tôi đổ lệ khóc đêm nay
Nào các anh có biết
Khi tôi đọc những bài văn anh,
bài thơ anh thắmthiết:
Những mối tình yêu đời bất diệt
của lòng anh, của hồn anhtrinh khiết
hiện nguyên hình trênchữ mực vừa in.
Tư tưởng -- giòng câu -- chứađựng vạn niềm tin
Bao tâm huyết đổ dồn trên ý nghĩ
Thơm tho thay những ý tình tếnhị
Nói không cùng những cảm động ẩntrong lời
Tôi biết các anh những kẻ đã khóc cười
Là những kẻ còn tin yêu vững sống
Còn sáng tạo các anh hãy còn sáng tạo
Mặt trời mọc!
Mặt trời mọc!
Rưng rưng mùa hoa gạo
Lỡ một mai tôi chết trần truồngkhông cơm áo
Thì hồn tôi xin phảng phất chốn trăngsao
Để nhìn các anh nhưvừa gặp buổi hôm nào
Và trong câu chuyện tôi sẽ cườinhắc bảo:
Còn sáng tạo ta hãy còn sáng tạo”.

Mai Trung Tĩnh đề nghị thơ xuôi,một cách thể nghệ-thuật tự-do:

...Tôi vẫn trờ về xóm đêm đêm nghetiếng đàn than van kể chuyện chiều xưa mẹ chết anh bỏ đi, em vơ chịu lấy một mình đau khổ. Em lớn lên mang theo từng hồ lệ khóc khong hết ngàyxanh.
Bao cung bậc nức nở như lòng anh rạn nứt.
Người ôm đàn còng lưng gói tròn tâm sự riêng tây, giây chùng nỉ non như trái tim bị hắt hủi.
Người tamuốn xót thương và cần sự tội nghiệpcủa kẻ khác ư? Cuộcđời phải chăng là một chuỗi dài tộinghiệp. Đêm đêm người ta vẫn đàn vọngcổ tiếc cho ngày xưa dù có hay không. Nghĩa là mộtdĩ vãng,kỷ niệm nào.
Nghĩa là tôi muốn cho mắtkhóc. Cuộc đời là những câuvọng cổ dài. Đời mình lànhững chuỗi nhớ thương tiếc nuối.
Người muốnthế nên không cưỡng được. (Tiếng khóc, 40 Bài Thơ).

 Nhưvậy, thơ Tự do hiện đại thi ca thêm mộtbước, hợp tâm tình con người”hôm nay” lúc bấy giờ và có thể cả sau này, nhưngvề mặt văn chương, thành quả và sựđóng góp hạn chế hơn Thơ Mới và cảthơ Tượng trưng dù chỉ có mặt không lâu!

2-Thơlục bát đã được canh tân vớimột số nhà thơ thờiThơ Mới, nay trên tạp chí Sáng Tạo rồiThế Kỷ Hai Mươi, Văn Học, Văn,Nghệ-Thuật, v.v., lục bát được tiếptục hiện đại hóa với ngôn ngữ tân kỳ,hìnhảnh mới hơn, bất ngờ,cũng như trong cách dùng chữ, ngắt câu. Khởixướng bởi Cung Trầm Tưởng, tác giảtập Tình Ca, Lục Bát Cung Trầm Tưởng, tiếp đó có Sao Trên Rừng (Nguyễn ĐứcSơn), Trần Tuấn Kiệt, Trần ĐứcUyển, Hoài Khanh, Kim Tuấn, Hoàng Trúc Ly,...

Cung Trầm Tưởng:

“Bù em một tháng trời gần
Đơm hoa kết mộng cũngngần ấy thôi
Bù em góp núi chung đồi
Thiêu n
ương đốt lá cũngrồi hoang sơ.
Bù emxuôi có ngàn thơ
Vẫnnghe trắc trở bên bờ sông thương
Quênthôi, bông sẽ phai hường
Mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu
Non sôngbóng mẹ sầu u
Mòn trong ng
ưỡng cửa, chiều lu máisầu.
Thôi em xanh mắt bồ câu,
Vàng t
ơ sợi nhỏ xin hầukiếp sau...” (Kiếp Sau, Lục Bát Cung TrầmTưởng)

Sao TrênRừng:

rồi mai huyệt lạnh anhvề
ru nhau gió thổi bốn bề biển x
ưa
trăngtà đổ bóng cây thưa
mộng trần gian đã hái vừa ch
ưaem” (Tịch Mạc, Lời Ru).

Hoàng Trúc Ly:

xin em dừnglại môi mềm
giấc m
ơ thê thảm bóng chìm đêm sâu
tay xuôi m
ười ngón rụng sầu
xa nhaunăm tháng cúi đầu nhớ nhau.


(… ) nhìn lêncửa khép lầu cao
bóng em chảy xuống vực sâu mắt buồn
về đêm khuya khoắt nhớ th
ương
mưa bay trước mặt, tủi hờn giăngngang” (Lá Hoa Duyên, Trong Cơn Yêu Dấu).

3- Thơ tình đã phong phúthêm ở giai đoạn 1954-1975, hơn nữa là thờicó những bài thơ tình đểđời với sự phụ họa của nhạcphổ thơ. Hiện tượng thơ cóthể nói đến những tập Truyện Chúng Minhcủa Nhất Tuấn (5). Tình yêu trongtrắng của những người tuổi trẻ, nhưng hoàn cảnhđất nước phân ly và chiến tranh khiếnnhững kẻ yêu nhau không thể gần, chỉ gầntrong tơ tưởng và kỷ niệm. Ở đây, tình yêu đã nhuốm mùi súng đạn, tình yêu vàthơ tình thời đại:

“Con quỳ lạy Chúa trên trời
Để cho con thấy đượcngười con yêu
Đời con đau khổ đã nhiều
Kể từ thơ dạiđủ điều đắng cay
Số nghèo hai chục năm nay
Xây bao nhiêu mộng trắng tayvẫn nghèo
...Người ta lại bỏcon rồi
Con quỳ lạy Chúa trên trờithương con” (Cầu Nguyện, TruyệnChúng Mình 1).

Thơ nguồn cảm hứngtừ tôn giáo đặc biệt là thơ Thiền nhưnglại dùng kho ngôn ngữ của Trung-Hoa vì thi ca ViệtNam chịu ảnh hưởng nàyhơn là từ chữ Phạn. Thiên Chúa giáo cũng đã là nguồnhứng cảm của Quách Thoại, LM Vũ ĐứcTrinh, Nhất Tuấn, Du Tử Lê, v.v. Những bài thơ hay của Quách Thoại viết về tình ái:

“Ta ngạt thở bởi mùi hươngxa vắng
Hương thiên đàng vừathoảng bến trần gian
Ta đê mê cảm động đến mơmàng
Nghe mầu nhiệm thấm nhuần trong mếncảm
... Như Băng em, xin ngónẻo thiên đàng
để nguy hiểm tasống đời địa ngục...” (NhưBăng Trường Tình).

Nhà thơ Du-Tử Lê - giảiVăn học Nghệ thuật 1973 với tập ThơDu Tử Lê 1967-1972, đã ngạo mạn tôn thờ người nữ thành Tin Mừng cho đời chàngchăng?

“Nàng buồn như trái chín
mắt gầy đêm mưa xanh
hồn căng trên thập tự
đầu cúi xuốngdương gian
chớp hoài đôimắt ướt
tôi thích được quỳdưới chân nàng
chỉ để xin nhữngđiều vớ vẩn” (Phúc Âm Nàng).

Du Tử Lê còn có những bài đầy mộtnỗi buồn tuyệt vọng và chân thành, nhiều giãi bàyvà tiên tri của một người tinở sứ mệnh đến với đời nhưmột nhà thơ:

“... hãy mang đi hồn tôi
một hồn đầy côn trùng
một hồn đầy tháp chuông
ngân nga lời báo tử”(Lúc Người Chết).
Thơ tình còn có Thế Viên, Hoàng Trúc Lyrồi Kim Tuấn:
“Anh cho em mùa Xuân
Nụ hoa vàng mới nở
Chiều Đông nào nhung nhớ
đường lao xao láđầy
Chân bước mòn vỉa phố
Mắt buồn vin ngọn cây …” (NụHoa Vàng Ngày Xuân, Thơ Kim Tuấn).

Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Hoàng Trúc Ly, Cung Trầm Tưởng, v.v. đã là những nhàthơ đa tình. Với Trần Dạ Từđó là:” Thủa làm thơ yêu em

Trời mưa chưaướt áo
Hoa cúc vàng chân thềm
Gió mây lưng bờ dậu
Chiều sươngđầy bốn phía
Lòng anh mấy ngã ba
Tiếng đời đi rất nhẹ
Nhịp sầu lên thiết tha.
Thủa làm thơyêu em
Cả dòng sông thương nhớ
Cả vai cầu tay nghiêng
Tương tư trời thànhphố … (ThủaLàm Thơ Yêu Em)

“Nàng” cũng làm thơ:

“Người đi qua đời tôi/ Trong những chiều đông sầu
Mưa mù lên mấy vai / Gió mù lên mấy trời
Mây mùlên mấy biển
Ng
ười đi qua đời tôi / Hồnlưng mùa rét mướt
Đườngbay đầy lá mùa / Vàng xưa đầydấu chân
Lòngvắng như ngày tháng / Đen tối vùng lãng quên
(…) Ng
ười đi qua đời tôi/ Nghe những lời linh hồn
Phi laodài tiếng ru / Êm ái lòng hối tiếc
Trên lối về nghĩa trang / Trong mộ phần tốiđen
Ng
ười đi qua đời tôi / Khôngnhớ gìsao người
Emđi qua đời anh / Không nhớ gì sao em”. (Thơ cũ của nàng)

Ở Cung Trầm Tưởng, tình bắtđầu với Mùa Thu Paris:

“... Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút, giờ
Mùa thu âm thầm
Bên vườn Lục-Xâm
Ngồi quen ghế đá
Không em buốt giá từ tâm...”.

Hai nhà thơKiên Giang, Trần Tuấn Kiệt cũng đã đểlại nhiều bài thơ tình đẹp. Tình mớilớn có hiện tượngNguyễn Tất Nhiên với những vần thơ họctrò catụng tình yêu được phổ nhạc và phổbiến rộng rãi nhất là trong giới học sinh, sinhviên! Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ sau đây là một bài thơ tình nhưng ngườiđọc có thể hình dung lại được đờisống dân tộc hài hoà ở miền Nam, những vùng như Biên Hoà, nơi sinh trưởng của nhà thơ:

“Đôi mắt tròn, đen, như búp bê
Cô đã nhìn anh rất... Bắc Kỳ
Anh vái trời cho cô dễ dạy
Để anh đừng uổng mớ tình si
Anh vái trời cho cô thích mộng
Để anh ngồi kể chuyện nằmmơ
“ Đêm qua có mộtchàng bươm bướm
Nguyện chết khô trên giấy học trò”
Anh chắc rằng cô sinh trong nam
Cảnh tượngdi cư chắc lạ lùng?
Khi nghe ai luyến thương HàNội
Chắc cô nghe bằng timdửng dưng
Anh vái trời cho cô dửng dưng
Coi như Hà Nội - xứ hoangđường
Để anh còn dắt cô đi dạo
Còn rủ cô vào rạp cải lương
Anh vái trời cô thích cải lương
“Thích kẻ anh hùng diệt bạo tàn”
Mốt mai thê thảm quanh đời sống
Cô sẽ còn đôi chút lạc quan
Đôi mắt tròn, đen, như búp bê
Cô nhớ nhìn thiên hạ lận lường
Mà hãy nhìn anh cay lắm chuyện
Nhưng còn con trẻ chuyện yêuđương”(1973).

4-

Nếu từ thời ThơMới, thơ đã tự do hơn, phóng túnghơn thơ cũ nhưng vẫn thường ở trongkhuôn tế nhị, thơ mộng thì đến thời nàynhất là ở những năm chiến tranh, tâm tình con người giao động nhiều, mất mát thuathiệt nhiều, như bất lực trước tànbạo của chiến tranh và kiếp người, đã có nhữnggiọng thơ khinh bạc, bạt mạng,như Nguyễn Bắc Sơn; cũng là thời thơvăn bốc lửa của miền Trung địađầu của miền Nam Cộng Hòa. Miền Trungđã sôi động với những biến cốPhật giáo 1963, 1965, đại học Huế, nhóm LậpTrường, rồi biến cố Tết Mậu Thân,cổ thành Quảng Trị, v.v., với những người thơ trẻ Trần Vàng Sao, Thái Luân,Mường Mán, Hoàng Lộc, Thành Tôn, Luân Hoán,... NguyễnNho Sa-Mạc với những vần thơ mệnh yểu;thơ ở ông rõ là không phơn phớt,nơi trần bì, mà đã thẩm thấu trong hình hài và tâm tưởng. Một trong những bài thơ tình đầutiên của Nguyễn Nho Sa-Mạc là bài Vàng Lạnh,đăng trên tạp-chí Mai năm 1962, mộttạp-chí cung cách thủ cựu, khép kín và nổi tiếngvới những bài nghị luận khô khan về triếtlý và văn-hóa. Bài thơ đến với giới thưởng ngoạnthi ca lúc bấy giờ như một làn gió lạ. Nội dung một thiên tình sử dù chỉ mới bắtđầu và lời thơđược chăm sóc, trau chuốt một cách tuyệtvời:

“Chuyện bữa ấy chiều nay em kểlể
màu môi chôn kỷ niệm đã lâurồi
mi mắt đó ghi ân tình đổvỡ
đời nữ sinh vànglạnh tháng ngày trôi
Em đã khóc cả buổi chiều hôm trước
chúng bạn đùa đã biếtchuyện riêng tư
nỗi yêu thươngtrong đời người con gái
bảo em buồn nức nở trước trang thư
(…) Chuyện bữa ấy chiều nay em kểlể
dáng mi trầm nuối tiếcnhững ngày qua
thứ bảy chiều chúng mìnhmừng sinh nhật
của mối tình sớm nởsớm đi qua”.

Vũ Hữu Định cũng chết trẻ,nổi tiếng với bài thơ Còn Một Chút GìĐể Nhớ được Phạm Duy phổnhạc - nhạc phổ thơ đóng một vai trò quantrọng giúp đến với người thưởngngoạn và làm sống lâu những tác phẩm hay, từthời này và ra đến hải ngoại sau này (nhưng thương mại hóa hơn là tự phát):

phố núi cao phố núiđầy sương
phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
anh khách lạ đi lên đixuống
may mà có em đời còn dễ thương
phố núi cao phố núi trờigần
phố xá không xa nên phố tình thân
đi dăm phút đã vềchốn cũ
một buổi chiều nào lòngbỗng bâng khuâng
em Pleiku má đỏ môi hồng
đây buổi chiều quanhnăm mùa đông
nên em mắt ướtvà tóc em ướt
da em mềm nhưmây chiều trong
xin cảm ơnthành phố có em
xin cảm ơnmột mái tóc mềm
mai xa lắc bên đòi biên giới
còn một chút gì để nhớđể quên”.

Trong số, Luân Hoán là nhà thơsáng tác mạnh nhất với năm thi tậpđược xuất bản trước khi xảy rabiến cố 1975, đó là chưa kể sáu tập khác in chung với bạn thơ. Ông nhập dòng thi ca phảnkháng chiến-tranh bên cạnh dòng thơquê hương và tình yêu với một ngôn ngữ riêng ông:

em yêu dấu hờn giậnchi kỹ rứa
chim trong vườnchiều nay hót nhiều hơn
em có nhớ con chào mào mọi bữa
vẫn đứng một mìnhđổ giọng véo von” (Làm Lành).
*

Thơ thời này còn có nhữngkhuynh hướng triết lý, về phậnngười và vũ trụ như thơChế Vũ, Phổ Đức, Thành Tôn, Hoài Khanh, Bùi Giáng,Mai Trung Tĩnh,... Ở Thành Tôn:

“.. đi, về bóng lạ bànchân
dòng sông nghiệp dĩ tiếpdần biển khơi
quanh co nghĩ rộng đấttrời
cái tôi hiện hữu một thờivong nô
khép dần cánhcửa hư vô
thân chưa nhậpthế cơ hồ cách xa” (Ranh Giới, Thắp Tình 1969).

Tình yêu ở Phổ Đức đã nhẹnhuốm mùi thiền:

“Anh đứng dậy che tay buồn cúi mặt
Nhìn lối quen năm tháng dẫm lên sầu
Em qua đó bao lần khi nắng tắt
Mỗi chiều về bốn mắt lại nhìnnhau
Trong im lặng anh nghe hồn ẩm mục
Khóc thương thân vàng úa cảtâm linh
Đời chung hưởngnhưng không cùng chung mộng
Anh tự tay đào huyệt để chôn mình...”  (Ảo Tượng Tình Yêu).

Hoài Khanh, trong Thân Phận (1962),” kẻbị đày giữa bãi đất hoang tàn của nghĩađịa trần gian” như Phạm Công Thiện giớithiệu trong đề tựa:” Tôi lẩn trốn vìbiết mình không thể / Mây của trời rồi giósẽ cuốn đi”, vì nhà thơ đã mất hayhết còn tin những nơi trú ẩn tình yêu và niềmtin:

“Hãy để tôi đi khuất cõi đời
Buộc ràng chi nữa xác thân tôi
(…) Thượng đếđành vắng mặt
Chân lý lại xa vời
tôi dối lòng an ủi ngắm mâytrôi
tìm một chút bình yên khi linh hồnsôi sục” (Tự Vấn).

Thơ Thiềncủa Bùi Giáng là một phương tiện giải thoátcuộc sống khó khăn, hiện-sinh không lối thoát. Thơ ảnh hưởng Phật giáo có Phạm ThiênThư, Nhất Hạnh, Hoài Khanh, Phạm Công Thiện, XuânPhụng,... nhưng nổi tiếng là Phạm Thiên Thưvới những bài thơ tình dài hơithể lục bát như Đưa Em Tìm Động HoaVàng hay bốn chữ như Ngày XưaHoàng Thị:

“Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Chim non dấu mỏ
Dưới cội hoa vàng...”

Tập thơ trườngthiên Đoạn Trường Vô Thanh (1973) viết theo thể lục bát muốn đi xa hơntình yêudưới bóng bồ đề và bốnbề thiên nhiên. Ở đây đằng sau chuyện nàngThúy Kiều là bề sâu tư tưởng dân tộc, tôngiáo cùng triết lý. Cuộc đời Kiều dưới lăngkính một người Việt ở thế kỷ XX. Hãynghe ông tả tiếng đàn Thúy Kiều:

“... bây giờ phiếm gợn thêm chương
soạn cung giảivận đoạn trường từ đây
vi vu đồi liễu cồn mây
hơi thu tỏa cánh hạc bay chập chờn
cỏ vàng núi nhuộm tà dương
đồi phong lá gọibóng sương xạc xào
hạt đàn tấm tức nao nao
suối tuôn mạchđá đau bào lòng non...” (Tr. 24). 

Thi ca thế giới đa dạngđược giới thiệu nồng nhiệt hơn. DiễmChâu của nhóm Trình Bày đã đưa thơ Âu-châu hậuchiến đến với người đọc.Phạm Công Thiện giới thiệu Rainer M. Rilke như làmột nhà thơ của hố thẳm,của đêm tối nguyên thủy, nhà thơ của Hưvô, ông đến với Phật và đông phươngnhư nguồn cảm hứng; nhà thơ cô đơntrước những sự vật có thể có cảm thôngnhưng chắc là có một hiện hữu riêng, tựtại. Rilke ở trong số những văn nghệ sĩchống và” muốn” tách khỏi nguồn Thiên chúa giáo,cũng như F. Nietzche. Guillaume Apolinaire thích làm thơtự do và có những bài mỗi đoạn là mộtchữ, tập Alcools gồm những bài hay nhất củaông, không chấm câu. Nhà thơ siêu thực Gérard de Nervalsống cuộc đời của mộng ảo, sốnggiữa trong những khoảnh khắc tỉnh thức,cơn điên và mộng ảo. Thi ca trở thành trò chơi của sự sáng tạo, đứa con củathượng đế, là hoả diệm sơn kiabỗng một bữa nào, lãng đãng trào phun bởi mộtgót chân ngà huyền diệu. Kẻ chôn cuộc đờimình trong những cơn mộngảo. Kẻ ôm mộng một đời, mà thơ làmột lời mời gọi của trái tim.

Về thơ nữ cóTrần Thị Tuệ Mai, Mộng Tuyết ThấtTiểu Muội, Hoàng Hương Trang, Trần Thy Nhã Ca, Lệ Khánh,..;đi từ những tình ý ngập ngừng, kín đáo vàlời cổ kính, đến những nghi vấn khúcmắc, táo bạo! Trong số, Nhã Ca đem những tứthơ nhuốm không gian của thời hồng hoang nhânloại, tình đam mê ngây thơ trong mộtkhung cảnh thật vô tư:

“Tôi làm con gái
Buồn như lá cây
Chút hồn thơ dại
Xanh xao tháng ngày...”
(Bài Nhã Ca Thứ Nhất, Nhã Ca Mới, tr. 36)
“Đời sống ôi buồn như cỏ khô
Này anh, em cũng tợ sươngmù
Khi về tay nhỏ che thờitiết
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ” (Thanh Xuân, tr. 41).
5-
Thi-ca miền Namtrong hơn 20 năm (1954-1975) đã là mộtbộ diễn-mục của những khúc giao-hưởng gồm nhiều biến tấu, đadạng về thể thơ cũng như nội dung, âmhưởng, tiết tấu. Nếu phải nhậnđịnh, chúng tôi không nói đến loại thơ bình dân của người Việt-Nam ‘dân tộc thi sĩ’, xin chỉthu gọn trong một số điểm về nhữnghiện tượng và sự nghiệp, công trình đáng nóiđến.

Trước hết,về ngôn-ngữ thi ca đã có đủ trình độ,từ ngôn ngữ cổ-kính, sang-cả, nét thơ tinhtế, ý tưởng thâm sâu của Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, v.v.

“… Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất,
Ghìchặt nàng cho chết giữa mê ly.
Rồi dày xéo lên sông núi đô kỳ,
Bên thành quách ta ra tay tàn phá.
Giữa hoang loạn của lâu đài, đìnhtạ,
Ta thản nhiên, đi trở lại núi rừng.

Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng”(Đinh Hùng, Bài Ca Man Rợ)

đến ngôn-ngữnguồn cội đông-phương cùng ý tưởnglập ngôn của nhà thơ thế hệ tiếp nối,như Viên Linh, Tô Thùy Yên:

“... Ta hỏi han hề HiuQuạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ
Đảo hoang, vắng cảhồn ma quỉ.
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên
(...) Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế
Hữu hạn nào không tủinhỏ nhoi?” (Trường SaHành)

Bên cạnh đó là ngôn-ngữ tâmhồn của thời đại. Hoặc làmột ngôn-ngữ thi ca đẹp, trau chuốt; củanhững Nguyên Sa, Hoàng Trúc Ly, Nguyễn Tất Nhiên, MaiTrung Tĩnh, …

Hoặc là ngôn-ngữ thi ca triết lý củathời đại mà thơ củaPhổ Đức, Thành Tôn, Hoài Khanh, Trần TuấnKiệt, Phạm Công Thiện, … là những dấu tích, như đã trích dẫnở phần trên. Thơ củaNguyễn Nho Sa-Mạc đã mang hình ảnh và ý thơ chứa nét hiện sinh của thời đấuthập niên 1960:

“Bằng đôi tay ốm kín nỗi buồn
Ta đi trong trời đất hoàng hôn
Mà nghe sữa mẹ chan hòa cháy
Máu ở buồng tim cùngloạn cuồng 
Ta siết hình em trong tiếng hôn
Im nghe da thịt và linh hồn
Giữa không gian rộng ta vùng dậy
Cuộc sống đi vòng quanh áo cơm
Ôi nửa cuộc đời ta đảo điên
Đêm nằm ru giấcngủ cô miên
Hai mươi tuổi tronghồ suy tưởng
Ngửa mặt nhìn trời đingả nghiêng” (Sinh Nhật).

Một ngôn-ngữ thi ca đầyhoài nghi, khắc khoải, khi siêu-hình, khi hiện sinh thânphận người.Ngôn-ngữ của những kiếm tìm lốt thoát cho cá nhân vàtập thể.

Cái đẹp, cái đạt trongthơ ngừng ở hình thức, nhạc tính, âmđiệu hay cần phải bao gồm cảm hứng vàtriết lý, tư duy?Có người nhờ kỹ thuật thể hiện, chonội dung mới vào ngôn ngữ thơ mà trở nên thơhơn, được đón nhận hơn, dù bướcđầu có thể đi lại trên con đườngngười trước như Thơ Mới cóngười làm theo nhưng với ngôn ngữ, ý tình hôm nay,ngữ điệu độc đáo riêng, tạo bảnsắc, có thi tính riêng! Nói thơ tình yêu chưa chắc thời nào cũng như nhau là do lẽđó! Có thời trang thành mốt lâu dài, có khi lạichỉ là đồ chưng xa xỉ không cầm cựđược với thời gian! Lý luận cho lắm rốtlại, văn chương là ở cách thể hiện.Thẩm mỹ học mới, ý thức mới quantrọng, vì chính ý thức sáng tạo có mới, cóđộc đáo, khác biệt, riêng tư,... thì kỹ thuật, ngữ điệu, ngôntừ, hồn thơ mới cất cánh bay được!

Như vậy, thi ca có những sángtạo văn chương, những cái mới, có thểgây bối rối và ồn ào lúc đầu nhưng cókhả năng sống còn với thời gian,được đón nhận, nhưng cũng có nhữngcái mới lạ gây nghi vấn, chống đối vàcũng có những cái bất cập, trở lùi quáđộ! Người làm thơ cảmnhận thi hứng rồi diễn đạt thành lờithơ, hai phương diện của một thểhiện nghệ thuật, cái Đẹp! Phải có ý chí sáng tạo,sống mạnh, cách tân ngôn ngữ, cấu trúc, nhịpđiệu, nhạc tính, v.v. vì thơhay hay không cũng chẳng có khuôn mẫu nào. Cái khó cho nhàthơ khi phải lập lại phong cách, ngôn từ sẵncó của mình mà không sáng tạo, không thêm được cáimới hay không thay đổi; hoặc quá tập trung vàovăn bản như một ám ảnh; rồi đề tàicó khi hết chất thi ca. Thơ mới, tứ mới, tâm tìnhmới đưa đến một hay nhiều hìnhthức khác, mới, để diễn tả thi hứngmới, của hôm nay. Như thế thơ này sẽtruyền cảm đến người đọc cùngthế hệ, cùng thời! Dù sao thì thi ca là thể loạitương đối khả dĩ cónhững cách tân, làm mới hơn là một vài bộ mônvăn nghệ khác như tiểu thuyết, truyệnngắn,..., dù vậy cái mới luôn đòi hỏi bayếu tố cổ điển thiên thời địalợi nhân hòa. Hội họa chẳnghạn, người nghệsĩ có thể một mình đi trước thờiđại, không được hiểu liền, nhưngtác phẩm một khi được hình thành, sẽvẫn trơ gan cùngtuế nguyệt và sẽ có lúc có người đồngcảm. Cái mới, cái kháccủa thơ cần phải có đáp ứng liền,phải năng động thường trực, phảiđi với thời đại. Thơ tự do từtạp chí Sáng Tạo là một thí dụ. Cái mớicũng có nghĩa cách tân cái cũ, trở lại cái cũvới một ngôn từ, nội dung, hình thức,kỹ thuật,.. mới. Thơ Tô Thùy Yên là một thí dụ,

Tóm, hai mươi năm thi ca này cóhai khuynh hướng chính: một, hiện đại,mới với trữ tình, thi tính; một mới hoàn toàn tự do.Cả hai là những nỗ lực mới về ngônngữ thơ, về nhạcđiệu, những dựng xâynền tảng thi ca mới, sứ mạng thi nhân mớivà khác trước đó.. Tự do vàkhác. Tất cả với Thanh Tâm Tuyền chẳng hạn,là phản, là đối nghịch. Như nội dung, ý tình chuyênchở trong thơ. Hình thức vànội dung với thơ Thanh TâmTuyền là một, như một. Phải thành công một,kia mới thành công xướng lên, mới lên. Yếu tínhthơ tự do có yếu tố hỗn độn,... vì nó có sựtổ chức riêng, có kết cấu riêng, nội tại,để nói lên, để nên thơ!Thơ tự do khác thơ cổ đìển hay có niêmluật vì liên hệ đến tác giả, đến tài thơ, nhịp thơ riêng. Nếu không, là thấtbại, là không còn thơ tự do! Thanh TâmTuyền bỏ làm thơ sau những xáo trộn giữathập niên 1960, cho đến khi ông vào trại” cảitạo” nơi núi rừng Việt Bắc sau 1975. Trêntạp chí Nghệ thuật, nhà thơ Trần Ðức Uyểnđã có lần nhắc lại câu tâm sự của Thanh TâmTuyền tại sao không còn có thể làm thơ:”... Tự nhiên thấy khó, không dám làm. Vả lại chưatìmđược cái gì mới. Tôi thấy thơbây giờ càng ngày càng thu hẹp lại, rút gọn vào trongcái” tôi”, để cuối cùng chỉ có mình hiểuđược thơ mình”(6).

NếuThanh Tâm Tuyền hiện đại với âm hưởngTây phương thì Tô Thùy Yên là dấu vết khảocổ, nhân chủng học cho một phương đông huyềndiệu, thần bí. Không khí cổ thời, ý và nhân sinh quan có vẻ của người xưa, khônggian và cảm giác xưa. Sống ở thế kỷ XX, ôngchụp ảnh nghệ thuật, dùng máy hiện đạihôm nay để nắm bắt những nét đẹpđông-phương vương vất đâu đó trongvũ trụ, nhất là những nét đan thanh của tâmhồn! Cái đẹp ở đây là cái đẹp củanhững huyễn mộng hoang đường, củamột thế giới ẩn chìm trongthời gian, là mỹ cảm của tâm hồn nhà thơ đứngtrước thiên nhiên, trước đời văn minh mànhư hoang sơ. Cái đẹp ở trong nỗi buồnthế kỷ, ngôn ngữ thăng hoa thành mộng mịcổ thời. Cái Tôi sung mãntruyền thừa văn hóa, hãnh tiến trong hoang vu cũngnhư trongbức rối của thời đại.

Kẻ hậu sinh saunày muốn tìm hiểu con người và cảnh tượngđời sống Việt thế hệ 1954-1975 khôngthể không mở tìm lạinhững trang thơ mang suy tư về cá nhân và tập thể củaMai Trung Tĩnh, Hoài Khanh, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, v.v.!Ở thơ Tô Thùy Yên chẳng hạn, thi ca gắn liềnvới đời sống, đặt vấn đề cholương tâm nhân loại, cho đồng loại, và khôngchỉ ở một thời. Ở ông, có thể nóiđến thi ca như một kinh nghiệm vừa tưduy vừa tâm linh mà cũng là một kinh nghiệm nhân sinh.Thơ ông là một khẳng định lớn của conngười! Có lần ông đãnhận định rằng” thế kỷ mà chúng ta đangsống đây càng lúc càng hiển lộ một hiện tượng tách biệttrầm trọng lạ lùng giữa thơ và đờisống. Tách biệt đến mức tưởngchừng bây giờ thơ đãtrở thành một công việc riêng tư hết sức chuyên mônnhư trong một hội kín giữa các người làmthơ với nhau thôi. (...) Nếu lịch sử là nỗlực mô tả những diễn biến cụ thểcủa thời gian thì thơ, một cách kháiquát, là lịch sử trừu tượng của thờigian, là phần hồn thiêng của lịch sử” (7).

Chú-thích:

  • Nguyên Sa,”Kinh nghiệm thi ca”, Sáng Tạo,số 21, 6-1958, tr. 66.
  • Thanh Tâm Tuyền,”Nỗi buồn trong thơ hôm nay”, SángTạo, 31, 9-1959, tr. 1.
  • Thanh Tâm Tuyền. Bđd, tr. 4 & 6.
  • Nguyên Sa.” Rời bỏ nềnvăn chương trú ẩn”. Đất Nước,2, 12-1967, tr. 9.
  • Gồm nhiều tập, tái bản nhiềulần, tập 1 xuất bản lần đầu năm1962.
  • Trần ÐứcUyển.” Nhìn lại thơ hôm nay”. NghệThuật, 12, 12-1965, tr. 16-17.
  • “Bài nói chuyệncủa Tô Thùy Yên trong buổi ra mắt ThơTuyển tại Houston TX ngày 9-3-1996”. Ngày NayTX, 340, 1-4-1996, tr. B3.

 (1-2000)