Thực vật đặc trưng ở rừng U Minh

CÂY TRÀM

Cây tràm tênkhoa học: Melaleuca leucadenra Myrtaecae. Tính trên toàn tỉnh Kiên Giang, năm 1998,diện tích rừng tràm được 37.043 ha.Tràm rất thích nghi vi vùng đất chua phèn hay ngập nước, làloại cây đặc trưng cho rừng Um. Tràmở đây mọc thành rừng.Dấu vết những dãy rừng tràmnguyên sinh bị vùi sâu dưới lớp bùn thảm thực vật do thiên tai bão lụt năm Thìn (1904)được phát hiện U Minh, mà dân địa phương gọi là “tràm lụt”, chứng tỏ nơi đây, từ nhiều thế kỷ trước những khu rừng rộng lớn. Nhiềucây tràm cổ thụ mọc ven sông, rạch đườngkính đến 40-50 cm. loại tràm mọc tự nhiên loại tràm trồng. Tràm Kiên Giang chia làm 2 loại: Tràm cừ và tràm gió. Cây tràm c thân thẳng,cao hàng chục mét, thường làm cây cừ xây dựng.Tên gọi“tràm cừ” chính làbắt nguồn từ công dụng đó. Tùy theo chỗ đất tốt hay đất xấu, tràmcừ trồng từ 5 đến 8 năm thu hoạch bằng cách đốn sạch.Cây tràm sức tái sinh mạnh, nên những chòinon lạicho một lớp cây mới rất nhanh. Tràmcmọc được phân bố tập trung nhiều nhất vùng U Minh, Vĩnh Thuận, An Biên một phần huyệnGiồng Riềng, Hòn Đất, Kiên Lương.

Cây tràm gió cao trung bình 2mét, thân cây thường khẳng khiu, chứa một hàm lượng tinh dầu rấtlớn, phân bố các vùng đồng cao đất phèn của huyện Hòn Đất, Kiên Lương Phú Quốc. Khách đitrên lộ 19 (Nam Kỳ Khởi Nghĩa) thường xuyêntừ An Biên-Vĩnh Thuận có thểtrông thấy những lô từng tràm bạtngàn của U Minh xanhkịt, mút tầm mắt.Tràm không chỉ cho gỗ, củi, tinhdầu. Tràm còn có tác dụngchống gió, chắn sóng, ngăn tốc độ dòng lũ, tác dụng cải tạo môi sinh rất quan trọng. Rừng trám nơi trú của cácloài chim, ong, trăn, rắn, rùa một số loạithú khác. Nấm tràm(nấm mèo) cũnglà một loại thực phẩm quí. Mật ong tràm mùi thơm đặc biệt so với nhiều loại mật ong từ cáclọai hoa khác.

Nói đến việcxanh hóa” hay “lấp kín” rừng U Minh bao phen bị chiến tranh tán phá, hàng năm bị hỏahoạn, trước hết phải nghĩ đến tràm- loạicây tuyệt vời về giá trịkinh tế cũng như những tácdụng nhiều mặt khác của đối với một số vùng đất trũng và phèn Kiên Giang. Ngàyxưa, thực dân Pháp cho đấu thầu mở cúp khai thác hế khu vực rừng tràm nầy đến khu vực rừng tràm khác, nhưng rồi vớisức phục hồi của tràm, rừngcũng lại được lấp kín trở lại. Hiện nay,khu vực rừng U Minh và một số khu vực đất trũng và phèn của huyện Kiên Lương, Hòn Đất đã đượcgiao cho từng hộ dân nhận đầu làm“xanh hóa” lại rừng tràm đã mất. Biện pháp phục hồi rừng tràmgiữa nhà nước và nhân dân cùng làm,đôi bên điều lợi, tiền chắc rằng việc chăm sóc và bảo quảnrừng sẽ có hiệu quả tốt hơn. Không bao lâu rừng tràm, nguồn lợi câytràm slà một nguồnlợi kinh tế đáng kể.

CHOI

Tính đến những mặt cỏ của rừng tràm Kiên Giang, phải kể đến loài choại. Choại chiếm tỉ lệ cỏ rừng đến90% rồi mới đến các loại không đángkể. Choại thuộc loại dây leo thuộc dòng họ dương xỉ (Pteropaida),mộtphân ngành của thực vật mạch Trachéophyta. Ai vào rừng U Minh thì trước nhất phải ớn cái nỗi càn qua những chùm choại. Choại dày đặc khắp nơi, choại leo um tùm theo những thân cây. Lá choại tương tự tàn ráng thu nhỏ, có nhiều cánh cứng xếp thànhhai hàng, mỗi cành lá đều

gai nhọn theo mép rìa. Lá choại lúcmới đâm mầm người ta gọi đọt choại”, hình dạnh giống nhưmộtcon cuốn chiếu nằm co trên cọng non mềm,hái luộc ăn rất ngon. Trong những năm căn cứ cách mạng trong rừng, thiếu lương thực, ta thườnghay ăn đọt choại nấu cháo cá, lươn. Đọt choạinấu canh, luộc chấm mắm, trộngỏivới ong non ăn rất ngon, lúc ăn thay cơm được. Nguốn lợi lớn nhất vềchoại là dây. Dưới chân lùmchoại đâm ra tua tủa những cọngngó, có cọng dài đến hàng chục mét, lớn bằng đầu ngón tay út. Ngườita bứt choại thành bó, phơikhô thành dây. Mỗi nắm gọi là lọn, mườilọngọi một thiên, mười thiên gọi một muôn, mườimuôn gọi một vàn. Sau đó dây choại được lái buôn thu mua chở đi bán cho nhà vựa ở đôthị. Dây choại dùng để làm nhà nôngthôn, bện đăng, đó, nò, lọpvà các loại dây kiềm, buộc…Dây choại dùng vào những chỗngập nước rất bền.

Người ven rừng U Minh ,với nghề bứt dây choạicoi như một nguồn kinh tế rất quan trọng trong đời sốnggia đình. Xong mùa cấy họ bỏ cơm, gạo nồi niêu xuống xuồng, kéo nhau vào rừng đạp gộp cấtxoai làm nơi tạm trú để bứt choại. Mỗi ngày bứt được bao nhiêu, gom v xoai đạp sân phơi. Cứ vậychoại khô dần về nhà kêu lái đến bán. Bứt choại mùa này gọi là “choại nước”, không được giá cao, bởi cọng choại ngắn và non, màu vàng sậm, khôngđủ độ bền khi dùng. Choại hạn” bán giá cao, nhưng làm ra sản phẩm cựchơn “choại nước”, bởi đi vào rừng phài gồnggánh lội bột, khi vận chuyển choại thành phẩm mang về vừa sức mỗingười.

MT CẬT

Một loại cây tương tự câycau nhưng nhỏ và thấp, mọc thành từng bụi, hoặc từng đám, hai bên cọng củatàu đầy gai nhọn. Sau mùa cấy, người dân U Minh  chống xuồng vào rừng tìm đến những câymậtcật mọc nhiều để đốn lấy đọt non của câu. Mỗi cây mật cật chỉ chỉ cho ta một mỗi lần đốn. mật cật nonnhư cây quạt xếp, đốn đem vế phơi khô báncho những nhà chằm nón thủ công để họchằm ra những chiếc nón truyền thống dân tộc Việt nam ai cũng đều biết. hìnhchóp, rộng vành đượcchằm trên nhiều cọng vành tròngt nhỏ đến lớn, qua lớp mật cật non, màu trng ngà, trông thậtxinh xắn. Có những thợ khéo tay ngườita khoét một lớp lá mỏng hơn những nơikhác, khi đưa lên ánh sáng nổi rõ nhữngdòng dân ca đậm nét quê hương. ngườicònbọc bên ngoài chiếc nón một lớpvải nhựa bóng trắng, trông thêmsang và dịu.

BỒN BỒN

Loại cây cùngdòng họ lát (Jone), thân được ghép lại từ những lá bẹ dẹp và dài, cao ngang đầu người, mọc từng đám hàng nhiều ha những trũng đất lầy, ítphèn. Thường người ta nhổ lấy khúc gốc bồn bồn,lột lấy cái củ non làm dưa chua đem bán, cũng lamột nghề sống phụ của người dânU MINH. Ngoài làm dưa chưa,bồn bồn non còn nấu cháo cá, xào với cá, thịt ăn độnthay cơm cũng được. Bồnbồn tự nhiên rừng U Minhnay còn lại rất ít, bởi rừng bị vỡhoang làm ruộng, đất thuộc, bồn bồn lần lượt bị diệt chủng. Để tồntại loài thực vật có íchvà quí hiếm này, có những vùng đất trũng, đầm lầy, người ta trồng lại, có những gia đìnhtrồng đến năm, mười công bồn bồn. Họ lấy bồn bồn non làm dưa chua bán, tính trên mặt bằng, mỗi công bồn bồn thu nhập gấp hai lncông trồng lúa.

CÂY BÀNG

Bàng cũng gọi là“cỏ gấu”, tên khoa học: Leperiaartieulata, họ Cyperacaea, thuộcloại thân thảo, có bộ r chùm, thâncây tròn, tgốcđến ngọn không có lóng, đốt,nhỏ hơn chiếc đũa ăn cơm, giống nhưlác (cói), nhưng cây lác chỗ ruột rỗng. Đường kính thân cây bàng lớn khoảng 4mm. Cây dài khoảng 1,30mét đến 1,70 mét. Cùng với cây tràm, cây bàng thích nghi với vùng đấtchua phèn ngập nước của cánh đồng Tứ giác Long Xuyên, hậu Tân Hiệp, Giồng Riềng vùng đầm lầyU Minh . Hàng năm đếnmùa khô, cây bàng tàn lụi, chỉ còn gốc nằm trong đất, đến mùa mưa lại bắt đầu chu kỳ sinh trường mới, khi bàng mọc lên cao đến độ thu hoạch, người ta dùng tay lần sát gốc, nhổ lên từng nắm nhỏ,chứ không dùng dao cắt nhưlác, rồi lại thành “neo”, mỗi neo là một nhỏ vòng tròn qui ước 2 gang tay đâu lại(khoảng 40 cm).Khi phơi khô, bàng độ dai, dẻo và chu lực khá, ít hút ẩm, ít thấm nước. Do đặc tính này bàng được dùng làm nguyên liệu để đan bao bì, làm đệm, đặc biệt là bao dùngđựng muối, đựng lúa gạo rất thích hợp. Thời kháng chiến chống Pháp, người ta dùng bàng đanđệm chắm làm nóp để ngủ thay mùng. bài ca Nam bộ kháng chiến” câu “Nóp vớigiáo mang ngang vai”, đó là loại“mùng ngủ” đệm bàng. Ngoài ra những cọng bàng ngắn,người ta giũ ra, đan cặp đựng quần áo, tài liệu, đan nón đội.Ty canh nông tỉnh Rạch Giá thuở ấycó tổ chức ra một số sởtrồng bàng trong rừng U Minh vàmột số “xưởng’ đan bàng để phục vụ yêu cầu kháng chiến.

Ngày xưa,trước khi đan, người ta dùng chàygiã từng cọng bàng nhỏđặt trên phiến đá hay tấm ván đếlàm dẹp cọng bàng, gọi là “giã bàng”. vậy, nông thôn nghề đan bàng truyềnthống, đêm đêm vang lên tiếngchày giã bàng thịch thịch quen thuộc. Tiếng chày giã bàng gợi nhớ mênh mông, nó đã đi sâu vào văn học đồng quê. Ngày nay, người ta dùng những trục cán thủcông, hay chạy bằng động cơ, năng suấttăng hơn gấp nhiều lần.

KiênGiang, trên nhiều vùng đất úng thủynhiễm phèn rộng lớn, ấylà “quê hương” của loài câybàng sinh sống tự nhiên, nơi ấy diện tích bàng đông đặc đến 50%. Bàng mọc tập trung cánh đồng Tứ Giác Long Xuyên, bắc Hà Tiên, đôngTân Hiệp, Châu Thành, Giồng Riềng và một số khu vực ven rừng U Minh thượng.

Từ lâu, người dân Kiên Giang biết dùng cọngbàng để đan đệm thay chiếu nằm, hoặc để phơi lúa, khoai…Trong những năm kinh tế khủng hoảng, đời sống khó khăn, đa số nông dân nghèo Kiên Giangkhông tiền mua nổivải mặc, đã dùng bàng đan áo quầnđể che thân. Cũng có một thựctế là đoếi với công việc lao động như đốt than, bứt choại,lội đi cắm câu, cấy phát ngoài đồng…chiếc quần đùi, áo cánh “ba lỗ” bằng bàng chịu đựng câycỏ cào xước, bùn nước thấm ngấm một cách bền bỉ hơn vải, lại không phải tốn tin.

một số xóm người Kinh, người Khmer trên những xã của Kiên Giang, sốngvề nghề đan bàng có truyền thốnglâu đời, dường như đó là một tục nghiệp gia truyền, chứ họ vẫn biết thờibuổi kinh tế phát triển bây giờ, làm ngh đan bàng chẳng hiệu qủa kinh tế là bao. C vậy, trong những thángnông nhàn mỗi năm, ra đồng nhổ bàng, phơi bàng, giữ bàng, đan bàng đối với họ trở thành tục lệ quê hương, chỉ có tiếng giã bàng thịchthịch dội vào tiềm thức sâu thẳm quathâu đêm, họ mới chịu nổi vậy.

Lâu nay, việc khai thác bàng Kiên Giang chủ yếu theocách thu hoạch tự nhiên, do đó năng suất và chấtlượng rất hạn chế. Nghề đan bàng âu cũng là một nghề truyền thống Kiên Giang. Hay chăng, nếu một kế hoạchkhoanh vùng, đầu tư kỹ thuậttốt,với diên tích bàng  thiên nhiên hiện có, giữgìn, bão dưỡng, khôi phục lại tốt,ta thể tạo thêmnhiều công ăn việc làmcho hàng ngàn con ngưi với cái nghềtruyền thống ấy, mà hiệnnay chưa phải là lỗi thời.