Từ Lục Vân Tiên đến ca dao

          Trongvăn học Việt Nam, hai tác phẩm thơ Nôm đã có những ảnh hưởng khá sâu đậm đến đờisống của nhân dân, đó là truyện Kiều, còn gọi là truyện Kim Vân Kiều hay ĐoạnTrường Tân Thanh của Nguyễn Du (1765-1820) và truyện Lục Vân Tiên của NguyễnĐình Chiểu, còn gọi là Đồ Chiểu (1822-1888). Theo nhận xét của nhà bình luậnthơ Hoài Thanh, tác giả Thi Nhân Việt Nam được nhà biên khảo văn học Nguyễn VănXuân dẫn lại, thì “...từ bên kia Hải Vânra Bắc người ta đọc truyện Kiều. Từ bên này vào Nam, người ta đọc Lục Vân Tiên.Nói như thế không phải quyển này và quyển kia không ảnh hưởng tới miền kế cận.”(1)

          Quảđúng như Hoài Thanh đã nhận xét, tuy nhiên, ảnh hưởng của Lục Vân Tiên vào vănhọc dân gian miền ngoài không nhiều như ảnh hưởng của Truyện Kiều vào văn họcdân gian phía nam Hải Vân (tức từ Quảng Nam trở vào). Vào Nam cho đến tận vùng Nam Kỳ Lục Tỉnh xưa kia, chúng ta nhiều lầnbắt gặp những nhân vật tiêu biểu của truyện Kiều, nhất là Thúy Kiều và Kim Trọngtrong ca dao dân ca vùng này. Trong lúc đó, chúng ta họa hoằn mới gặp được nhânvật tiêu biểu Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga của Đồ Chiểu trong ca dao dân camiền ngoài.

          Điềunày cũng dễ hiểu thôi. Quần chúng đất Bắc chịu ảnh hưởng loại văn chương vănhoa chải chuốt của truyện Kiều, truyện Hoa Tiên, của Bích Câu Kỳ Ngộ, Mai ĐìnhMộng Ký, của Cung Oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm khúc...Họ có đọc Lục Vân Tiênvà có thích Lục Vân Tiên là thích những nhận vật bộc trực trong cách hành xử vàtrong cách ăn nói nhưng văn chương Lục Vân Tiên là văn chương thật thà, bìnhdân, viết theo ngôn ngữ thường ngày của người miền Nam đã không làm cho họ có cảmhứng để tiếp nhận. Vì vậy, họa hoằn lắm chúng ta mới bắt gặp được vài nhân vật của truyệnLụcVân Tiên được nhắc đến trong văn nghệ dân gian đất Bắc. Chẳng hạn câu sau đâytrong lời hát rao của hát Phường Vải vùng Thanh Nghệ Tĩnh:

                   Tình cờ ta lại gặp ta,

                   Vân Tiên mới gặp Nguyệt Nga mộtlần

           Câu cadao có vẻ bình thường, nghe thật thà như văn chương của truyện Lục Vân Tiênnhưng nó cũng đã nói lên được giá trị đặc biệt của tác phẩm mà câu ca dao đãchuyển tải. Quả đúng là cuộc gặp gỡ giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga là mộtcuộc gặp gỡ tình cờ. Và quả là họ chỉ gặp nhau có một lần rồi phải xa nhau chođến cuối truyện họ mới được tái hợp trong một hoàn cảnh đầy vẻ mơ ước. Vậy thì,câu ca dao trên đây, dù thật thà mộc mạc, nhưng cũng đã nói lên được ước vọng củahai con người - một nam và một nữ -dù mới gặp mặt nhau một lần họ cũng ước mong giữ mãi được mối tình thủy chungnhư Nguyệt Nga đối với Vân Tiên và họ cũng ước vọng có một kết hợp đẹp như cuộckết hợp giữa Lục Vân Tiên với nàng Kiều Nguyệt Nga cuối truyện. 

          NhưHoài Thanh đã nhận xét, truyện Lục Vân Tiên đã ảnh hưởng sâu đậm đối với quầnchúng nhân dân từ phía nam đèo Hải Vân tức từ Quảng Nam trở vào Nam.

          Ngay từnhững ngày đầu tiên, khi cụ đồ mù lòa Nguyễn Đình Chiểu bắt đầu sáng tác truyệnthơ Lục Vân Tiên, cụ đọc tới đâu, học trò của Cụ ghi chép tới đó, và từ bản ghichép đó, từng đoạn truyện Lục Vân Tiênđã được lưu truyền trong đám môn sinh của Cụ rồi nhanh chóng được các bậc phụhuynh tiếp tay, đưa những đoạn truyện thơ đó đi vào đám quần chúng đương thời.

          Năm1864, Gabriel Aubaret (1825-1894), một sĩ quan viễn  chinh người Pháp đang đồn trú tại Nam Kỳ đã dịchtruyện thơ Lục Vân Tiên sang văn xuôi Pháp với tựa đề Poème Populaire Annamitevà cho đăng trong tập Kỷ yếu Á châu (Journal Asiatique).

          Trong lờigiới thiệu, G. Aubaret đã viết: “Truyệnthơ này, hay nói đúng hơn, truyện truyền thuyết này, đã được sáng tác bằng tiếngnói bình dân, chưa bao giờ được in thành bản. Tác phẩm đã được lưu truyền đếnngày nay với những đoạn chép tay bằng thứ chữ riêng. Chúng tôi đã phải nhờ mộtsố lớn người bản xứ để thu thập năm hay sáu bản chép tay ấy mà chúng tôi đã sửdụng để dựng lại câu chuyện cho tương đối có đầu đuôi và nhất quán”. (2)

          Thứ chữriêng G. Aubaret nhắc đến ở đây là chữ Nôm.

          Cũngtrong khoảng thời gian này, Duy Minh Thị (tên thật Trần Quang Quang), người ChợLớn đã đưa truyện Lục Vân Tiên bằng chữ Nôm cho nhà “Phật Sơn  Bửu Hoa Các tàng bản” bên Tàu ấn hành, và sauđó, vào năm 1865, tác phẩm nầy được nhà sách Quảng Thạnh Nam tại  Chợ Lớn cho in lại.

          Trong lờigiới thiệu bản dịch truyện Lục Vân Tiênđược nhắc đến ở trên, G. Aubaret đã nhận xét: “Truyện thơ Lục Vân Tiên phổ biến trong dângian đến mức là ở Nam Kỳ không một người đánh cá hay người lái đò nào không hátmột vài câu thơ ấy khi họ chèo đò.”

          Như vậy,chúng ta thấy, ngay từ thuở sinh tiền, ngaytừ khi tác phẩm chưa được in thành sách một cách trọn vẹn, tácgiả Nguyễn Đình Chiểu đã chứng kiến được những ảnh hưởng từ tác phẩm của mình đốivới quần chúng Nam Kỳ Lục Tỉnh tolớn như thế nào.

          Chính sựphổ biến sâu rộng này,mà sau đó, đất Nam Kỳ Lục Tỉnh đã hình thành một sinh hoạt văn nghệ dân giankhá hấp dẫn, được đông đảo quần chúng thưởng ngoạn, đó là nghệ thuật nói thơ Vân Tiên. Trong khi ở đất Bắc,có nhiều người mù sống bằng nghề hát xẩm, thì tại đất Nam Kỳ Lục Tỉnh, cũng cónhững người bình thường (hoặc mù lòa) với cây đàn cò hay đàn độc huyền phụ họa,giữa một đám quần chúng đông đảo bu quanh, họ diễn xướng truyện thơ Lục Vân Tiên mà người dân bấygiờ gọi là kể thơ Vân Tiên hay nói thơ Vân Tiên. Đây là một hình thứcdiễn xướng khá đặc biệt, không giống như đọc thơ, cũng không giống như ngâmthơ, nó nằm giữa đọc và ngâm, khi hùng hồn, khi êm dịu lắng đọng tùy theo ýnghĩa của từng đoạn thơ Lục Vân Tiên. Hình thức diễn xướng độc đáo nầy còn đượcghi lại qua câu ca dao:

                    Vân tiên vân tiển vân tiền,

                  Cho tôi một tiền tôi kể Vân Tiên.

           Hình thứckể thơ hay nói thơ nầy không chỉ dừng lại ở chỗ dùng truyện thơ Lục Vân Tiên đểkể thơ hay nói thơ, người ta còn nhân chuyện Lục Vân Tiên mà sáng tác ra nhữngnhững vần thơ theo nhiều thể loạikhác nhau và cũng dùng hình thức kể thơ hay nói thơ mà diễn xướng. Chẳng hạn:

                   Đêm năm canh trong dạ bồi hồi

                   Ngày sáu khắc không nguôi dạngọc

                   Đó em noi cô Nguyệt Nga mà học

                   Họa tượng chồng thờ Lục VânTiên

                   Nào hay đâu cống sứ qua Phiên

                   Nhảy xuống sông xa vời hồnphách

                   Lòng dặn lòng xin em chí mực

                   Em đừng thương đó bỏ đăng

                   Tiếc cuộc đời như thể bóngtrăng

                   Khi tỏ rạng đến ngày lại khuyết.(3)

          Truyện thơ Lục Vân Tiên cũng đã để lại nhiều ảnh hưởng trong đời sống hằng ngày củanhân dân miền Trung qua nhiều hình thức ; ngoàinhững câu ca dao được lưu truyền quacác câu chuyện giáo dục trong gia đình, trong các cuộc háthò đối đáp, nócòn để lại dấu vết trong một trò vui Xuân dân gian khá phổ biến, đó là Bàichòi.

          Bàichòi là một hình thcvui Xuân mang tính đại chúng, thường được các làng ở miền Trung, nhiều nhất là từ Quảng Nam trở vào đếnBình Thuận, tổ chức như một lễ hội vào những ngày Tết. Vào những ngày cuối tháng Chạp,làng thường chodựng chín cái chòi tại sân đình làng, sân chùa hay một khoảng đất trốngnào đó... làm hai hàng, mỗi chòi cao khoảng trênvài thước, đủ chỗ cho vài ba người ngồi.  

          Bộ thẻ bài chòi gồm 27 con bài, chia làm 3 pho: pho Văn, pho Vạn và pho Sách.

          Chẳng hạn,pho Văn gồm các con bàimang tên: Nhất Gối, Nhì Bánh,Ba Bụng, TTượng, NRốn....

          Tên quân bài có thể thay đổi đôi chút tùy theo địaphương.

          Mỗi địađiểm tổ chức Bài chòi sử dụng 2 bộ bài: một bộ chia cho cácchòi, một bđể vào ống xóc.

          Sau khi đã phát cho mỗi chòi 3 thẻ bài xong, người hô hiệubắt đầu xóc ống bài thật kỹ rồi rút ra một thẻbài. Thay vì hô ngay tên con bài, người hô hiệu hát theo điệu hô bài chòi bằng một câu hay bài cadao có sẵn hay một câu hay một bài thơ lục bát mới ứng tác. Những câu mới ứng tác nếu hay và hợp với cảm nhận củađám đông sẽ được bảo lưu và sẽ được dùng trong các dịp Tết về sau. Trong mỗi lời nhưthế đều phải  ẩn chứa cái tên của con bàimà người hô hiệu  đang cầm trên tay.

          Chẳng hạn, trước khi xướng tên conTứ Tượng, người hô hiệu đã hô theo điệu bàichòi bài ca dao sau đây được mượn ý từ truyện Lục Vân Tiên từ khi VânTiên cứu Nguyệt Nga ra khỏi tay bọn cướp Phong Lai và 2 người đã trao thơ tỏtình với nhau và về nhà Nguyệt Nga vẽ bức hình Vân Tiên để luôn luôn tưởng nhớđến chàng.

          Ngườihô hiệu xướng bài sau đây:

                   Nguyệt Nga là gái trung trinh,

                   Vì cha, nên phải đăng trìnhra đi.

                   Ai ngờ gặp lúc hiểm nguy,

                   Phong Lai nó bắt, đem đi lênrừng.

                   Tớ thầy than khóc tưng bừng,

                   Trời ơi! Nó hại nửa chừng hồngnhan.

                   Vân Tiên vừa lúc đi ngang,

                   Chàng bèn ra sức phá tan hungđồ.

                   Xong rồi chàng mới bước vô,

                   Hỏi rằng thục nữ ở mô đi vầy?

                   Nguyệt Nga tình tự tỏ bày,

                   Tây Xuyên quê ở, thiếp tênrày Nguyệt Nga.

                   Qua Hà Khê đặng thiếp thămcha,

                   Ai ngờ bị đảng lâu la bắtrày.

                   May mà chàng cứu thiếp đây,

                   Lấy chi đáp nghĩa chàng rày,xin trao trâm.

                   Vân Tiên xây mặt không cầm,

                   Nguyệt Nga trong dạ hổ thầm lắmthay!

                   Trâm này thiếp đáp ơn dày,

                   Chàng mà không tưởng, thiếp tặngrày bài thơ.

                   Vân Tiên xây mặt cầm tờ,

                   Khá khen thục nữ tặng thơthay vàng!

                   Nguyệt Nga thôi mới hỏichàng,

                   Ở đâu nghĩa sĩ băng ngàn tớiđây?

                   Vân Tiên thong thả giải bày,

                   Xong xuôi chàng mới định bàibước đi.

                   Nguyệt Nga trong dạ sầu bi,

                   Đêm ngày tơ tưởng nhớ thì VânTiên.

                   Đặt bàn hương án cầu nguyền,

                   Họa ra bức tượng Vân Tiên để thờ.(4)

          Khi ngườixướng “hô” hết câu, người ta mới biếttrên tay người hô hiệu đang cầm là con bài Tứ Tượng vì trong câu cuối có nói “Họa ra bức tượng...”

          Bài hô nhằm giới thiệu con bàiTứ tượng trên đây gồm 30 câu lục bát là tóm tắt những ý chính trong một đoạnthơ dài gần 200 câu của truyện thơ Lục Vân Tiên (từ câu 91 đến câu 282). Dù chỉvới 30 câu, đoạn hô bài chòi này cũng đã nói lên được lòng biết ơn của NguyệtNga đối với Vân Tiên và cũng đã mô tả Vân Tiên là con người mang dòng máu “kiếnnghĩa bất vi vô dõng dã” và là con người mang tinh thần “trọng nghĩa khinh tài”.Đó cũng là những ý nghĩa then chốt mà truyện Lục Vân Tiên muốn nêu lên. Vậy là,khi ứng dụng Lục Vân Tiên trong một trò vui chơi giải trí ngày Xuân, truyện LụcVân Tiên vẫn nói lên được giá trị giáo dục của nó đối với đám quần chúng bìnhdân.

          Truyệnthơ Lục Vân Tiên, nhất là nhân vật Kiều Nguyệt Nga, đã gợi hứng để nhà văn HồBiểu Chánh viết nên tuồng cải lương “Nguyệt Nga cống Hồ” và đã được trình diễntại Nhà Hát Lớn, Sài Gòn vào năm 1943 do nghệ sĩ thời danh Năm Phỉ thủ vai KiềuNguyệt Nga.

          Như chúng ta đã thấy ở trên, ảnh hưởng của truyện LụcVân Tiên vào đời sống tình cảm của nhân dân Việt Nam đã xảy ra dưới nhiều hìnhthức khác nhau, và ảnh hưởng rõ nét nhất là đối với ca dao dân ca Việt Nam.

          Đọctruyện thơ Lục Vân Tiên, chúng ta bắt gặp một số câu được xem là ca dao, và nhữngcâu nầy đã được sưu tập vào các tuyển tập ca dao và đã được lưu hành từ lâu.

          Nhưtrong bài “Tìm về xuất xứ của một số câu ca dao”, chúng tôi đã viết về nhữngcâu ca dao có xuất xứ từ truyện Nôm nàynhư sau: “tađều thấy xuất hiện  đây đó trong tác phẩmnhững câu mà ngày nay ta được biết là ca dao.

          Loại ca dao này có thể nằm trong 2 trường hợp:

          -Hoặc là tác giả truyện Nôm mượn cadao để đem vào truyện - phần này chiếm rất ít.

          -Hoặc là câu thơ từ trong truyện Nômtrở thành ca dao - phần này chiếm một lượng rất lớn.…

          Ảnh hưởng qua lại giữa ca dao và thơtruyện Nôm là một quá trình lâu dài và tất yếu.”

          Dướiđây, chúng tôi ghi lại một số câu vừa thấy xuất hiện trong truyện Lục Vân Tiên,vừa thấy xuất hiện trong những tuyển tập sưu tầm ca dao:

          *Haicâu 179-180 trong Lục Vân Tiên:

                   Nhớ câu kiến nghĩa bất vi

                   Làm người thế ấy cũng phi anhhùng

đã được ghi trong trang sưu tập Ca dao Dân ca Nam Kỳ LụcTỉnh: (sưu tập 952 câu ca dao, không ghi tên người sưu tập, được đăng tải trêntrang web e-cadao)

                   Có câu kiến nghĩa bất vi

                   Làm người thế ấy cũng phi anhhùng.  

          *Haicâu 277-278 trong Lục Vân Tiên:

                   Chữ tình càng tưởng càng thâm,

                   Muốn pha khó lợt, muốn dầmkhôn phai.

 đã được cáctácgiả Trần Việt Ngữ, Trương Đình Quang...sưu tập trong DânCa Miền Nam Trung Bộ (tập 1, tr. 190) như sau:

                    Chữ tình càng tưởng càng thâm

                   Muốn pha khó lợt, muốn dầmkhó phai

                   Nhắn ai đừng có nghe ai

           *Cáccâu 411-412 trong Lục Vân Tiên:

                    Xin đừng tham đó bỏ đăng,

                   Chơi lê quên lựu, chơi trăngquên đèn.

 đã được tác giả Phan Tấn Tài sưu tập trong Ca Dao MiềnNam của trang mạng Đào Viên Thi Các:

                    -Anhđừng thấy đó bỏ đăng,

                   Thấy lê bỏ lựu, thấy trăngquên đèn.

                   -Bậu (Anh) đừng tham đó bỏdăng,

                   Chơi lê quên lựu, chơi trăngquên đèn.

           Câu thơ“Xin đừng tham đó bỏ đăng” cũng đã được dân ca Nam Trung Bộ mượn để trở thành:(DCNTB 2, tr. 67)

                    Xin đừng tham đó bỏ đăng

                   Quênđèn vì bởi ánh trăng

                   Saoanh lơi mối xích thằng, bớ anh!

           *Haicâu thơ 525-526 trong Lục Vân Tiên:

                    Gối rơm theo phận gối rơm,

                   Có đâu ở thấp mà chồm lêncao.

 đã được 2 tác giả Hồng Lan và Nguyễn Tấn Hưng sưu tậptrong “Một dòng ca dao, câu hò, câu đố Miền Nam” đăng trong Namkyluctinh.org.

           *Cáccâu 585 và 586 trong Lục Vân Tiên:

                    Thương thay chín chữ cù lao

                   Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêutình.

 đã được tác giả Trọng Toàn sưu tập trong tác phẩmHương Hoa Đất Nước (tr. 92): 

                    Thương thay chín chữ cù lao

                   Tam niên nhũ bộ biết baonhiêu tình.

           *Cáccâu 995-996 trong Lục Vân Tiên:

                    Mấy ai ở đặng hảo tâm

                   Nắng toan giúp nón, mưa dùmáo tơi.

 đã được sưu tập trong Ca dao Dân ca Nam Kỳ Lục Tỉnh:

                    Mấy ai ở đặng hảo tâm,

                   Nắng hanh giúp nón, mưa dầmgiúp tơi.

           *Cáccâu 1029-1030 trong Lục Vân Tiên:    

                    Ai cho sen muống một bồn

                   Ai từng chanh khế sánh phồn lựulê 

 đã được Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc sưu tập trong Tục NgữPhong Dao I (tr. 17)hay các tác giả Nguyễn Tấn Long và Phan Canh sưu tập trong Thi Ca Bình Dân ViệtNam (I, tr. 495):

                    Ai cho sen muống một bồn,

                   Ai từng chanh khế sánh cùng lựulê.

           *Cáccâu 1175-1176 trong Lục Vân Tiên:              

                    Minh nghe duyên cớ cảm tình

                   Hai hàng lụy nhỏ như bình nướcnghiêng

 đã được ca dao mượn nguyên câu dưới và sáng tạo câutrên: (Phan Tấn Tài trong Ca Dao Miền Nam)

                    Anhdứt lời than, em đây rúng động tâm tình,

                   Hai hàng lụy nhỏ như bình nướcnghiêng

           TrongCa dao Quảng Ngãi cũng có câu cuối tương tự:

                    ChợHuyện là chỗ ăn chơi

                   Ngóvô Quán Vịt là nơi hữu tình

                   TràCâu sao vắng bạn mình

                   Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng

           *Cáccâu 1301-1302 trong Lục Vân Tiên:              

                   Người đời như bóng phù du

                   Sớm còn tối mất công phu lỡlàng.  

 đã được Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc sưu tập trong Tục NgữPhong Dao (tr. 263)thành:

                    Người đời như cánh phù du

                   Sớm còn tối mất, công phu nhẹnhàng.

 hay Trọng Toàn sưu tập trong Hương Hoa Đất Nước (tr.74) hay TCBD 3 (tr.187):

                    Người đời khác thể phù du,

                   Sớm còn tối mất công phu lỡlàng.

           *Cáccâu 1515-1516 trong Lục Vân Tiên:

                    Nào hay tì tất Kim Liên

                   Được làm hoàng hậu nước Phiênmột đời.

 đã được ghi lại trong bộ sưu tập về hát ru Ninh Hòa củaNgô Sao Kim như sau:

                    Rắn ráo mà nộ bò hung,

                   Đâu đâu cũng có đứa khùng đứa điên.

                   Nào hay tỷ tấtKim Liên,

                   Đặng làm hoàng hậunước Phiên mãn đời!

           *Cáccâu 1569-1570 trong Lục Vân Tiên:

                    Trăm năm cho trọn đạo tòng,

                   Sống sao thác vậy một chồngmà thôi.

 đã được sưu tập trong Ca dao Dân ca Nam Kỳ Lục Tỉnhnhư sau:

                    Trăm năm giữ vẹn chữ tòng

                   Sống sao thác vậy một chồngmà thôi

           *Cáccâu 1583-1584 trong Lục Vân Tiên:    

                     Linh đinh một chiếc thuyền tình

                   Mười hai bến nước biết mìnhvào đâu?  

 đã được Trọng Toàn sưu tập trong Hương Hoa Đất Nước(tr.180) hay TCBD I (tr. 212)

                    Lênh đênh một chiếc thuyền tình

                   Mười hai bến nước biết gửimình vào đâu?

  hay ca dao chỉmượn câu “lênh đênh một chiếc thuyền tình” và sáng tác phần dưới:

                    Lênh đênh một chiếc thuyền tình

                   Ngượcxuôi xuôi ngược có mình với ta

                   Phòngkhi gió táp mưa sa

                   Mìnhvào giữ lái, ta ra chịu sào.  

           *Cáccâu 1585-1586 trong Lục Vân Tiên:

                    Ai từng mặc áo không bâu,

                   Ăn cơm không đũa, ăn trầukhông cau. 

 đã được sưu tập trong Ca Dao Dân Ca Nam Kỳ Lục Tỉnh(website E-Cadao) thành:

                     Ai từng bận áo không bâu,

                   Ăn cơm không đũa, ăn trầukhông vôi. 

           *Cáccâu 1619-1620 trong Lục Vân Tiên:

                    Nhớ câu xuân bất tái lai

                   Ngày nay hoa nở e mai hoatàn.

 đã được sưu tập trong Dân Ca Nam Trung Bộ (tr.103)

                    Chữ rằng xuân bất tái lai,

                   Ngày nay hoa nở, ngày mai hoatàn.

                   Mặc ý ai nay lụa, mai hàng,

                   Xin anh đừng có phụ phàng vảibô.

                   Thân em như rau muống thả dướihồ

                   Nay chìm mai nổi, biết ngàymô cho thành.

***

          Theoquan niệm của người xưa, đức tính căn bản của đàn ông con trai là phải giữ gìn chữ trung đốivới vua, với nước và phải giữ tròn chữ hiếu đối với cha mẹ cùng các bậc bề trên ;đức tính căn bản của đàn bà con gái là phải giữ gìn trinh tĩnh, tiết hạnh tứcsự trinh tiết và đoan trang nết na trong cuộc sống.

          Xưa cácbậc phụ huynh thường dùng tục ngữ ca dao để khuyên răn, nhắc nhở con cháu giữgìn những đức tính căn bản đó của con người:

                    Đã sinh ra kiếp ở đời,

                   Trai thời trung hiếu đôi vai cho tròn.

                   Gái thời trinh tĩnh lòng son,

                   Sớm hôm gìn giữ kẻo còn chútsai.

                   Trai lành, gái tốt ra người,

                   Khuyên con trong bấy nhiêu lờicho chuyên.

           Thừakế tiền nhân, tác giả NguyễnĐình Chiểu đã nhắcđến quan điểm giáo dục nầy như là quan điểm cốt lõi của toàn bộ truyện Lục Vân Tiên:

                    Hỡi ai, lẳng lặng mànghe,

                   Dữ răn việc trước, lành dèthân sau.

                   Trai thời trung hiếu làm đầu,

                   Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.

          Nhân vt chính thứ nhất của truyệnlà chàng Lục Vân Tiên.

           Đồ Chiểuđã minh họa hình ảnh của Lục VânTiên như một nhân vật lý tưởng với những phẩm chất tốt đẹp mà Đồ Chiểu mơ ước.Đó là hình ảnh của một chàng trai khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn. Đó cũnglà hình ảnh của một đấng nam nhi trong thời loạn lạc, khi còn là một gã thưsinh đã ra tay diệt bọn cướp Phong Lai để cứu Kiều Nguyệt Nga và giữ yên bình cho dân chúng, nêu caochâm ngôn “kiến nghĩa bất vi vô dõng dã” với tinh thần “trọng nghĩa khinh tài”.Lục Vân Tiên mang cả ước vọng của người dân miền Đồng Nai Cửu Long, ra tay trừbạo, dù gặp bao gian nan hiểm nghèo cũng không sờn lòng, quyết phấn đấu để cuốicùng đạt được ước vọng đem tài ra cứu nước.

          Chàngtrai Lục Vân Tiên đã để lại một hình ảnh tuyệt vời trong trái tim của nàng KiềuNguyệt Nga ngay trong lần gặp gỡ duy nhất để rồi mãi mãi cách xa cho đến ngàychàng vượt qua mọi hoạn nạn nguy nan, thi đỗ Trạng nguyên đem tài ra cứu nước đểgặp lại nàng Kiều Nguyệt Nga và nối duyên cầm sắt.  

           Nhân vật chính thứ hai củatruyện là nàng Kiều Nguyệt Nga.

           Nàng làmột thiếu nữ tài sắc và đức độ vẹntoàn, con gái của quan tri phủđang trị nhậm tại Hà Khê. Trên đường đi đến Hà Khê, giữa đường nàng bị bọn cướpPhong Lai vây khổn. May sao, nàng được Lục Vân Tiên, diệt được bọn cướp PhongLai, cứu thoát. Cảm ân đức cứu mạng, Nguyệt Nga nguyện gắn bó trọn đời mình vớiLục Vân Tiên. Về đến Hà Khê, nàng bày tỏ đầu đuôi sự việc và xin cha tìm cách đềnơn Vân Tiên. Tại đây,  nàng họa hình VânTiên và luôn giữ mãi bên mình. Và sauđó, cũng tại đây, nàng được tin (thất thiệt) là Vân Tiên đãchết. Nàng nguyện sẽ trọn đời thủ tiết để thờ Vân Tiên. Biết Nguyệt Nga là côgái xinh đẹp lại ngoan hiền, tên thái sư trong triều muốn cưới nàng cho contrai của mình. Nàng từ chối khiến lão tức giận, tìm cách trả thù. Nhân có giặcÔ Qua quấy nhiễu biên thùy, tên Thái sư tâu vua Trang Vương đem Nguyệt Nga cốngnạp cho chúa Tây phiên để tránh nạn binh đao. Trước khi lên đường cống Hồ, nàngxin phép cha sang nhà Lục ông để làm chay cầu siêu cho Vân Tiên và giúp đỡ cho gia đình Lục ông. Trênđường đi cống, sắp vượt biên ải, nàng quyết định mang bức hình Vân Tiên cùng nhảyxuống sông trầm mình. May sao, nàng lại được Phật Bà Quan Âm cứu. Sau đó, nàngđược gia đình họ Bùi nhận làm con nuôi. Họ Bùi có cậu con trai tên Bùi Kiệm muốnép duyên Nguyệt Nga. Nàng trốn thoát vào rừng và được một bà lão làm nghề dệt vảiđưa về chung sống.  Tại đây, Lục Vân Tiên, lúc nàyđã là Trạng nguyên đang đem quân dẹp loạn. Sau khi giết được tên tướnggiặc Cốt Đột thì chàng bị lạcvào rừng và gặp được Kiều Nguyệt Nga. Hai người tái hợp. Biếtnànglà người con gái trọn lòng thủy chung với Lục VânTiên, nhà vua thương phong làm quận chúa và cùng Vân Tiên chung sống trongcảnh giàu sang quyền quý cho đến trọn đời.

           Với hành trạng như vừa kể,Kiều Nguyệt Nga quả là một phụ nữ trung trinh tiết liệt, giàu sang quyền quýkhông khuất phục được tấm lòng thủy chung như nhất của nàng đối với Lục VânTiên. Và chính đức tính cao quý nầy đã để litrong tâm thức quần chúng một lòng chânthành trọng vọng đối với nàng:

                    Chiều chiều vịt lội ao sen

                   Tình cờ tôi gặp người quentôi chào.

                   Chào cô trước mũi tiênphuông,

                   Chào cô sau lái mặt vuông chữđiền.

                   Người nào là vợ Vân Tiên?

                   Cho tôi biết để chào liền chịdâu.

                   Người nào người ngãi tôi đâu?

                   Nói cho tôi biết để gởi câuân tình.

           Sự trng vọng nầy không phải chỉđối với quần chúng miền Lục TỉnhNam Kỳ mà nó còn lan ra tận miền trung Trung bộ. Trong các cuộc hát hò đối đáp,thỉnh thoảng trong lời hò rao, chúng ta cũng bắt gặp những câu hát có nội dunggần tương tự đối với nhân vật Kiều Nguyệt Nga của Nguyễn Đình Chiểu:

                    Ở xa tôi nghe tiếng bạn hò,

                   Cách sông tôi cũng lội, cáchđò tôi cũng sang.

                   Tới đây tôi chào hết bạn vàng

                   Chào người thục nữ, chào nàngthuyền quyên.

                   Người nào thiệt vợ Vân Tiên,

                   Nói lên cho tôi biết, tôichào liền vài câu.

           Đức thủychung như nhất của Kiều Nguyệt Nga là mộttấm gương cho giới phụ nữ noi theo. Bất cứ người con gái trung trinh nào cũngmuốn được noi theo tấm gương tiết liệt như nàng:

                    Dầu ai gieo tiếng ngọc,

                   Dầu ai đọc lời vàng,

                   Bông sen hết nhụy bông tàn,

                   Em đây giữ tiết như nàng NguyệtNga.

           Họctheo gương Kiều Nguyệt Nga, những người phụ nữ kiên trinh luôn tự nhắc nhở rằngdù gặp phải bất cứ hoàn cảnh éo le, ngang trái nào, dù ai có dùng lời ngon tiếngngọt, dùng bã phú quý vinh hoa để dụ dỗ họ vẫn không sờn lòng như Kiều NguyệtNga đã từng chứng tỏnhư thế:

                    Lòng lại dặn lòng, dầu non mòn biển cạn,

                   Dạ lại dặn dạ, dầu đá nátvàng nhòa,

                   Em đây quyết noi gương chịNguyệt Nga,

                   Mặc ai phỉnh dỗ, chẳng xa lờinguyền.

           Có thể, trong cuộc sống hằng ngày,đã có một số phụ nữvì cớ này hay cớ kia mà lỗi đạo vợ chồng ; thế nhưng, đối với những người đànbà kiên trinh, họ vẫn quyết giữ tấm tình thủy chung như nàng Nguyệt Nga đối vớiLục Vân Tiên:

                    Chim lẻ bạn khó về nơi non đảnh

                   Cảnh nhớ thương là tình cảnhmặn nồng

                   Dẫu ai kia có lỗi đạo vợ chồng

                   Em đây chí quyết một lòng nhưchị Nguyệt Nga.

           KiềuNguyệt Nga với “bức tượng hình” vẽ hình ảnh Lục Vân Tiên và lúc nào cũng mang bứctượng hình thân yêu đó bên mình chứng tỏ lòng nàng trân trọng và nhớ thương LụcVân Tiên biết nhường nào. Đó cũng là một biểu tượng nói lên lòng chung thủy chẳngnhững của nàng Kiều Nguyệt Nga đối với Lục Vân Tiên mà còn nói lên lòng chungthủy của người phụ nữ Việt Nam với người chồng của mình:

                    Trên trăng, dưới thủy,

                   Bấy lâu nay em tu bỉ (?) đợimình,

                   Như chị Nguyệt Nga thời trước,ôm bức tượng hình chờ Vân Tiên.

           Trongbuổi gặp gỡ đầu tiên, Nguyệt Nga đã phải than “nỗi ân chưa trả, nỗi tình lạivương”, và nàng đã lòng hẹn lòng “Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an”. Học gươngKiều Nguyệt Nga, những đôi trai gái yêu nhau cũng lòng hẹn lòng “giữ lời nguyền không phai”:

                    Đôi đứa ta như Nguyệt Nga ngày trước,

                   Đã trao lời nguyện ước vớiVân Tiên.

                   Liều mình qua cống Tây phiên,

                   Vai mang bức tượng, giữ lờinguyền không phai.

           Theo truyện, Kiều Nguyệt Nga chỉ được biết tin Lục VânTiên đã chết (theo lời của thân phụ Lục Vân Tiên nghe đồn đãi như vậy) . Nàngkhông hề biết là Lục Vân Tiên đã vì xót thương mẹ từ trần, chàng khóc nhiều đếnnỗi lâm bệnh mù mắt. Thế nhưng, trong tâm thức của quần chúng, họ lại tin rằngKiều Nguyệt Nga đã biết là Lục Vân Tiên vì xót thương mẹ mà mang bệnh mù lòa vàdù chàng có mù lòa nàng vẫn một lòng một dạ chờ đợi chàng. Và đó chính là ý tưởnglàm tăng thêm giá trị về lòng thủy chung của Kiều Nguyệt Nga và cũng muốn nóilên cho giới mày râu biết rằng trong đạo vợ chồng, người chồng phải tin vào đứctính thủy chung của người phụ nữ Việt Nam, tức là của những người vợ:

                    -Đạo vợ chồng anh phải xét cho xa,

                   Anh Vân Tiên mù mắt, chị NguyệtNga còn chờ

                   -Làm trai không xét cho xa,

                   Kìa xem anh Vân Tiên bóngquáng mà chị Nguyệt Nga còn chờ.

           Sự phânly của cặp tình nhân Vân Tiên - Nguyệt Nga cũng là một gợi hứng cho những cặptình nhân đời thường nghĩ đến. Nguyệt Nga dù có bị triều đình ép phải cống Hồ, khi thuyền ra đến chốnbiển hồ sắp sửa bước sang biên giới xứ người,  nàngđã tìm đến cái chết để “giữ vẹn lòng ngay với chàng”, thì người thiếu nữ đờithường, để tránh hoàn cảnh “trắc trở đôi phương” cũng đã nghĩ đến cái chết để mong được“thác xuống suối vàng gặp nhau”:

                    Kể từ ngày thiếp cách chàng xa,

                   Như Vân Tiên lâm bệnh, NguyệtNga đi cống hồ.

                   Thiếp xa chàng ruột héo gankhô,

                   Hang Thương Tòng chàng đợi,chốn biển hồ thiếp thương.

                   Sống làm chi trắc trở đôiphương,

                   Liều mình thác xuống suốivàng gặp nhau.

           Vì VânTiên, Nguyệt Nga đã hai lần “ăn chay nằm đất”. Lần thứ nhất, nàng xin phép phụthân sang nhà Lục Ông để “Ngày lành giờngọ đăng đàn - Ăn chay nằm đất cho chàng Vân Tiên”. Lần thứ hai, sau khi bịcha con Bùi Kiệm tìm cách ép duyên, nàng tương kế tựu kế xin cha con Bùi Kiệm đểcho nàng làm chay cho Vân Tiên rồi sẽ thành thân với Bùi Kiệm “Tôi xin lạy tạ Vân Tiên - Làm chay bảy bữacho tuyền thỉ chung”. Nguyệt Nga nằm đất ăn chay để tưởng nhớ đến Vân Tiênthì những người yêu nhau cũng nhớ về nhau, cũng trông ngóng nhau  nhiều như vậy:

                    Cửa hàn sĩ chọn người hiếu đạo,

                   Nhà nho gia chọn chút dâu hiền.

                   Vàng kia đúng lượng ta nguyềnbắt tay.

                   Bạn không nhớ khi Nga cáchTiên nằm đất ăn chay,

                   Ta mà xa bạn đêm ngày ngóngtrông.

            Nhânvật trong truyện Lục Vân Tiên được phân thành 2 thành phần tốt xấu rõ rệt:

           Nhng con người tốt gồm có:Lục Vân Tiên, Hớn Minh,Vương Tử Trực, cha con Kiều Nguyệt Nga, chú tiểu đồng, ông quán...

           Nhữngcon người xấu gồm có: cha con Bùi Kiệm, Trịnh Hâm, lão Thái sư, mấy tên thầybói, thầy cúng, thầy thuốc...

           Nhưtrong truyện ta đã biết, Bùi Kiệm tuy là một nho sinh nhưng tư cách hèn kém, thấyLục Vân Tiên có tài thì ganh ghét,  Kiệmlại là tên sẵn có máu dê, gặp người đẹp Kiều Nguyệt Nga thì híp mắt lại, dù biếtNguyệt Nga đã là người của Vân Tiên vẫn tìm mọi lời ngon ngọt để dụ dỗ NguyệtNga đi vào đường lỗi đạo. Ngườita ghét Bùi Kiệm vì Bùi Kiệm mang danh nho sĩ là người học chữ thánh hiền  mà không giữ đạo đức của Thánh hiền và chínhchàng đã tìm cách phá hoại tấm gương trung trinh của Kiều Nguyệt Nga. Hành vi bỉổi của Kiệm bị dân gian lên ánquyết liệt. Dưới con mắt của dân gian, Bùi Kiệm bị xếp ngang hàng với bọn vô lại,không thể chấp nhận được. Cái đáng ghét, đáng phỉ nhổ, đáng bị lên án của BùiKiệm dưới con mắt của nhân dân chính là ở chỗ hắn đã muốn phá hoại lòng chungthủy sắt son của Kiều Nguyệt Nga trong hoàn cảnh Kiều Nguyệt Nga như đang trongcảnh cá chậu chim lồng, khó mà thoát khỏi bàn tay đen tối của Bùi Kiệm.

           Những cô gái trung trinh rất sợ gặpnhững tay đàn ông mang máu Bùi Kiệm ; vậy nên, mấy chàng trai khi tán tỉnh người đẹp lúc nào cũngphải hứa rằng mình không bao ginhững tâm địa tồi tệnhư Bùi Kiệm:

                    Má hồng mình cũng như ta,

                   Đêm nằm thơ thẩn vào ra mộtmình.

                   Em thương hay không tự ý củamình,

                   Không phải anh như Bùi Kiệmép tình Nguyệt Nga.

           Và côgái cũng thường khuyênngười con trai không nên bắt chước Bùi Kiệm mà ép uổng duyên nàng:

                    Kiến bất thủ như tầm thiên lý,

                   Thương không thương tự ý củamình.

                   Đừng như Bùi Kiệm ép tìnhNguyệt Nga.

           Nhà biên khảo Nguyễn Văn Hầu đã có nhận xét như sau vềngười dân Đồng Nai-Cửu Long: “...ngườiLục Tỉnh Nam Kỳ gan dạ, cứng cỏi, thẳng thừng, nghĩ sao nói vậy, nói sao làm vậy,một một hai hai, không thích quanh co xảo trá, không ưa lý luận dông dài...”(N.V.Hầu 376) Phần lớn bản chất của họ lànhư vậy. Họ thích cái gì cũng phải rõ ràng, thiệnác phân minh, tốt xấu rạch ròi. Vân Tiên, Nguyệt Nga là những con người đáng trọng.Bọn người vô tư cách  như cha con Bùi Kiệmkhông thể được sắp chung hàng với những con người như Vân Tiên, Nguyệt Nga:

                    Con rắn hổ nó mổ con rắn rồng,

                   Tiền kẽm xỉa với tiền kẽm, tiềnđồng xỉa riêng.

                   Nguyệt Nga kết với Vân Tiên,

                   Cha con Bùi Kiệm ngồi riêng mộtmình.

           Cùng mộtphía gian ác với Bùi Kiệm còn có tên Trịnh Hâm. Cùng mang tính ganh ghét đố kỵnhư Bùi Kiệm, thấy Vân Tiên là người có tài, học rộng, có tư cách, Trịnh Hâmngoài mặt làm ra vẻ trọng vọng, thương yêu Lục Vân Tiên, nhưng trong lòng vẫntìm mưu ám hại. Sau khi thi về, gặp Vân Tiên bị mù lòa đang cùng tiểu đồng tìmđường về quê, Trịnh Hâm vì ganh tài với Vân Tiên nên tìm cách ám hại chàng. Sau khi lừaphình tiểu đồng, trói vào gốc cây trong rừng, Trịnh Hâm giả vờ thương xót, mướn thuyền đưa Vân Tiênvề quê Đông Thành của chàng. Nhân lúc đêm tối, Trịnh Hâm xô Vân Tiên xuống biểnđể hại chàng.

           Theoquan niệm “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo ; thiện ác đáo đầu chung hữu báo; chỉ hữu lai tảo dữ lai trì”,  (kẻ làmđiều thiện thì được trời ban cho điều thiện, kẻ làm điều ác phải bị trời giángcho điều ác ; làm điều thiện hay làm điều ác gì rồi cũng được trời báo ứng chỉcó sớm hay muộn mà thôi) (Minh Tâm BảoGiám), Vân Tiên dù trải qua bao dập vùi hung hiểm vì lòngngười độc ác thì cuối cùng cũng tai qua nạn khỏi, nhận “được ấn rồng trị dân” ;Trnh Hâm làm điều ác, vềsau dù có được Trạng nguyên Lục Vân Tiên tha cho mạng sống thì trên đường vềquê, thuyền chở hắn cũng bịlật và Trịnh Hâm bị chết đuối, đúng là quả báo nhãn tiền:

                    Huyền Trang Tam Tạng tu cần

                   Tám mươi mốt nạn mà không lụymình

                   Trịnh Hâm là đứa bạc tình

                   Thời sau mắc nạn thiên đình xửphân

                   Vân Tiên mắc nạn mấy lần

                   Thời sau Người được ấn rồngtrị dân...

          Nhắc đến những câu ca dao, những khúc dân ca bắt nguồntừ truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta không thể không nhắcđến bài ca dao sau đây mà tôi tin rằng, vào thuở thiếu thời, những người ngàynay ở lứa tuổi xấp xỉ  sáu mươi trở lên, rấtnhiều người đã được biết đến. Bài ca dao đó như sau:

                    Vân Tiên cõng mẹ chạy ra,

                   Đụng phải cột nhà, cõng mẹ chạyvô.

                   Vân Tiên cõng mẹ chạy vô,

                   Đụng phải cái bồ, cõng mẹ chạyra.

                   Vân Tiên cõng mẹ chạy ra...

           Trướckhi tìm hiểu thêm về bài ca dao này, chúng ta cần phải tìm hiểu về sự kiện “VânTiên cõng mẹ”. “Vân Tiên cõng mẹ” trong khoảng thời gian nào của cuộc đờichàng? Theo truyện, Lục Vân Tiên là người con chíhiếu. Đang ở kinh đô chuẩn bị dự thi thì được tin mẹ từ trần, chàng vội vàngcùng người tiểu đồng quay về quê để chịu tang mẹ. Trên đường về quê, vìnhớ thương mẹ quámức, chàng khóc hoài đến độ sinh bệnh và cặp mắt bị lòa. Sau sáu năm bị vùi dập bởi thế thái nhân tình đen bạc,nhờ thuốc tiên mà chàng được sáng mắt trở lại và trở về quê. Việc đầu tiênchàng đã làm khi về đến quê nhà sau sáu năm xa cách, là:

                    “...Mẹ tôi phần mộ nơi nào viếng an.

                   Đặt bày lễ vật nghiêm trang,

                   Đọc bài văn tế trước bàn minhsinh.

                   Suối vàng hồn mẹ có linh,

                   Chứng cho con trẻ lòng thànhngày nay...”

            Vậy thì, rõ ràng Lục Vân Tiên đã cõng mẹ trongkhoảng thời gian chàng còn mù lòa. Thực ra, trong truyện không có chuyện “cõngmẹ” này. Đây là ý muốn của quần chúng yêu chuộng truyện Lục Vân Tiên nói chung,và yêu mến Vân Tiên nói riêng.        

           Vào lứa tuổi vị thành niên, chúng ta chỉ xem đây nhưnhững câu hát vui cho tuổi trẻ người lớn vẫn gọi là đồng dao để ta đọc lên khiđược ngồi trên lưng bạn trong một trò chơi nào đó mà kẻ thua phải cõng người thắngchạy lòng vòng tùy theo ước định của hai bên trong cuộc chơi. Đến khi trưởngthành, chúng ta dường như quên bẵng đi bài ca dao lạ lùng đó và chắc hẳn nó vẫnnằm đâu đó trong đáy tiềm thức. Có nhiều người đã quên, nhưng cũng còn nhiềungười vẫn nhớ, trong đó có nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc.

           Theo nhàbiên khảo văn học Nguyễn Vy Khanh, trong cuộc tranh luận về Nguyễn Đình Chiểutrên tạp chí Văn Học vào đầu năm 1998, “Nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc khởi tranh luận khi đặtvấn đề tái định giá ca dao, đã đưa nhận xét cho rằng Nguyễn Đình Chiểu đã làtiêu biểu cho một “lý tưởng ở đường cùng”? Theo ông, những câu:

                   “Vân Tiên cõng mẹ chạy ra,

                   Đụng phải cột nhà, cõng mẹ chạyvô...

                   Vân Tiên cõng mẹ chạy vô,

                   Đụng phải cái bồ, cõng mẹ chạyra,

                   Vân Tiên cõng mẹ chạy ra ...

 một cách nào đó chứngtỏ chân lý Nho học đã không có lối thoát, “trung, hiếu, tiết, nghĩa” bị lunglay vào thời Nguyễn Đình Chiểu, “một lý tưởng ở đường cùng”. “ (5)  

           Đó là mộtcách nhìn, một cách lý giải. Tôi thử đưa ra một cách nhìn, một cách lý giảikhác. Như ở phần trên chúng tôi đã viết, trong truyện không có chuyện Lục VânTiên cõng mẹ. Có chuyện Lục Vân Tiên cõng mẹ “chạy ra, chạy vào” là do ý muốn củangười yêu mến nhân vật Lục Vân Tiên. Họ biết rằng chàng đã kính yêu mẹ của mìnhrất mực. Khi được sáng mắt trở lại, việc đầu tiên khi trở lại nhà là thăm mộ mẹvà thiết lễ cúng mẹ. Đã có sự thực của truyện là như vậy thì tại sao lại khôngthể cho chàng “cõng mẹ” khi chàng còn mù lòa để cho thấy cái tình cảm của chàngđối với Mẹ đã cao cả đến chừng nào và thiêng liêng đến mực nào? Trong truyện đãcó chuyện người dân cõng con mà chạy loạn (Tiêntrằng: Bớ chú cõng con - Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?). Người tacõng con vì người ta thương con ; vậy tại sao lại không thể cho anh chàng VânTiên mù lòa cõng mẹ chạy lòng vòng trong nhà để chứng thực lòng thương yêu củachàng đối với Mẹ? Đó là lý giải theo cái nhìn biện chứng. Một cách nhìn cao hơnmang tính tâm linh, thì như Đức Phật đã từng dạy: “Dù cho có người một vai cõng cha, một vaicõng mẹ, đến trọn đời mà chẳng phút xa lìa, và cung cấp áo cơm thuốc men, cácmón cần dùng. Như thế cũng chưa có thể gọi là đã trả xong ơn sâu nặng với cha mẹ”.(6)

           Vậy thì việc “Vân Tiên cõng mẹ” chạy lòng vòng trongnhà là một hình ảnh biểu tượng nói lên tinh thần hiếu thảo của Lục Vân Tiên đốivới người Mẹ của mình.         

 ***

          NguyễnĐình Chiểu là một nhà thơ lớn của nền văn học phương Nam vào hạ bán thế kỷ thứ19. Ngoài những tác phẩm mang tinh thần chiến đấu và yêu nước cao độ như : Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc - Văn tế Trương Địnhvà 12 bài thơ điếu Trương Định - 12 bài thơ điếu Phan Tòng - Văn tế Nghĩa sĩ Trậnvong Lục Tỉnh...ông còn là tác giả của 3 tác phẩm thơ Nôm dài hơi: Dương Từ Hà Mậu, Ngư Tiều Y thuật Vấn đápvà đặc biệt là truyện thơ Lục Vân Tiênđã có những ảnh hưởng khá sâu đậm đối với người dân Việt Nam, đặc biệt là từ QuảngNam trở vào. Những bài ca dao, nhữngkhúc dân ta được trích dẫn ở trên là một bằng chứng hùng hồn cho những ảnh hưởngsâu đậm đó của truyện Lục Vân Tiên.

____________________

Ghi chú:

(1) Nguyễn Văn Xuân - Khi những lưu dân trở lại -tr.73

(2) Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (tập 1), chú thích 2,tr.70

(3) Lê Minh Quốc - Thêm một tư liệu về Lục Vân Tiên(internet)

(4) Trần Việt Ngữ...- Dân ca miền nam Trung Bộ (tập 2)- trang 81

(5) Nguyễn Vy Khanh - Về Nguyễn Đình Chiểu và lý luậnvăn học (internet)

(6) Kinh Lời Vàng, tr. 117

      Các tuyểntập ca dao.