Cách viết hoa trong tiếng Việt

Đôi khi trong đời người ta, viết văn chỉ vì nhu cầu thôithúc chứ thực ra nhà văn chưa chắc đã nắm vững một số kỹ thuật hoặc nguyên tắcviết văn. Ngay chính bản thân tôi cũng rơi vào trường hợp như vậy.

Điều này cũng dễ hiểu vì tôi không tốt nghiệp hoặc chưa theohọc một truờng hoặc một lớp dạy viết văn nào. Mặc dầu tôi đã trải qua sáu nămđại học nhưng ở đại học người ta không chấm điểm theo nghệ thuật viết văn màchấm điểm theo nội dung bài vở. Cho nên khi khởi đầu viết tác phẩm “NhữngSự Thực Không Thể Chối Bỏ” năm 1987 thì kỹ thuật viết văn của tôi nhưnguyên tắc viết hoa, cách chấm câu v.v.. hoàn toàn là của Lớp Đệ Thất, Đệ Lụcvới lời dạy của thầy, cô trong môn Việt Văn rất đơn sơ mà tôi chỉ còn nhớ lõmbõm.

Sau mười năm sống ở Mỹ tức khoảng năm 1995 và sau khi đã làmviệc trong các trường học, theo dõi các bài giảng dạy viết văn của học sinh Mỹ,đọc các sách biên khảo về văn chương Hoa Kỳ tôi mới bắt đầu hiểu một số vấn đềnhư quy tắc viết hoa:

I. Quy tắc viết hoa trong văn chương Việt Nam

Trước khi nói về nguyên tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳchúng ta thử tìm hiểu xem nguyên tắc viết hoa của văn chương Việt Nam như thếnào. Theo tôi, khi tổ tiên chúng ta còn xử dụng tiếng Hán để làm văn tự thìchắc chắn không có quy tắc viết hoa. Khi chữ quốc ngữ được sáng tạo thì quy tắcviết hoa của chúng ta đã được mô phỏng hoặc bắt chước theo lối viết hoa của vănchương Pháp.

Thế nhưng quy tắc mà chúng ta ứng dụng hoặc bắt chước lạihỗn loạn và không thống nhất. Tôi không hiểu lỗi này do cha ông chúng ta khôngcó một Hàn Lâm Viện để đặt một quy tắc thống nhất hoặc giả đây là lỗi của nhàvăn, nhà xuất bản, của ban biên tập, của người sắp chữ (sau này là người đánhmáy) ? Riêng bản thân tôi, cho mãi tới năm 2000 – tức là sau 15 năm viết văntôi mới chính thức tuân thủ lối viết hoa thống nhất theo văn chương Hoa Kỳ.

Điều này qúy vị độc giả có thể nhận thấy trong cuốn KýSự 15 Năm xuất bản năm 2000. Chứ còn 5 tác phẩm về trước, lối viết hoacủa tôi hoàn toàn không thống nhất và hết sức lộn xộn. Sau đây là lối viết hoatrong văn chương Việt Nam theo thứ tự thời gian mà tôi đưa ra như những điểnhình.

1) Viết hoa theo Việt Nam Tự Điển Khai Trí TiếnĐức (1931) :

Chỉ viết hoa chữ đầu, chữ sau không viết hoa và có gạch nốigiữa các chữ. Thí dụ:

Kinh-dương-vương

Hà-nội, Hà-nam, Hà-tĩnh, Giáo-sư, Giáo-sĩ, Hương-giang, Nga-la-tư,Thái-bình-dương

Thế nhưng: A-di-đà-Phật (chữ Phật cuối cùng lại viết hoa)

2) Lối viết hoa không thống nhất trong Nửa ChừngXuân của Khái Hưng:

- Tên người: Viết hoa cả họ, tên và chữ lót theo văn chươngMỹ nhưng vẫn có gạch nối theo lối cũ. Thí dụ: Dương-Huy, Nguyễn-Thiết-Thanh,Nguyễn-Yên. Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết: Dương-thị-Mai (chữthị không viết hoa)

- Tước hiệu, chức vụ: Thường không viết hoa và rất lộnxộn. Thí dụ:

cụ tú Ninh-Bắc, cụ tú Lãm, ông hàn Thanh

nhưng ở một chỗ khác lại viết Bà Cán, ông Tham Lộc

(Tham ở đây là một tước vị lại viết hoa)

- Địa danh, dinh thự, công viên, thành phố, trường học:

Khái Hưng chỉ viết hoa chữ đầu và vẫn có gạch nối theo lốicũ. Thí dụ:

Phúc-yên, Hà-nội, chùa Bách-môn

Thế nhưng ở những chỗ khác tất cả lại viết hoa. Thí dụ:

Thạch-Lỗi, Quan-Thánh, Phú-Thọ, Trù-Mật, Ninh-Bắc, Nam-Định,Gia-Lâm

Các con đường, con sông Khái Hưng viết hoa cũng không thốngnhất: Thídụ:

đường Quan-Thánh (Quan Thánh viết hoa)

Sông Tô-lịch (sông lại viết hoa, lịch lạikhông viết hoa)

Ngày, tháng Khái Hưng không viết hoa. Thí dụ: thứ bảy

3) Lối viết hoa của Nhất Linh trong Bướm Trắng:

- Về địa danh, Nhất Linh chỉ viết hoa chữ đầu và cógạch nối theo lối cũ. Thí dụ:

Sầm-sơn, Hà-nội, Khâm-thiên, Chợ-lớn

Thế nhưng Sài Gòn có chỗ lại viết:

Sài gòn (không gạch nối)

Sài-gòn (có gạch nối)

Nhật bản (không gạch nối)

- Về tên người Nhất Linh viết hoa theo lối Mỹ. Thídụ:

Bác-sĩ Trần Đình Chuyên (không gạch nối, chữ lót viết hoa)

Nhưng ở một chỗ khác lại viết: Vũ-đình-Trương (có gạch nốivà chữ lót lại không viết hoa)

4) Lối viết hoa không thống nhất của Thanh Tịnhtrong Quê Mẹ:

- Các địa danh chỉ viết hoa chữ đầu và có gạch nối.

Thí dụ: phá Tam-giang, trường Mỹ-lý, Trung-kỳ, Hà-nội

Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết:

Trường Mỹ-lý (trường viết hoa mà không phải ở đầu câu)

làng Hòa ấp (lại không có gạch nối)

chùa Đồng Tâm (chữ tâm lại viết hoa và không cógạch nối)

- Chức vụ chỉ viết hoa chữ đầu. Thí dụ: Hương-thơ

Thế nhưng ở những chỗ khác lại viết:

ông đốc (đốc không viết hoa)

ông Huyện Phong (hai chữ sau lại viết hoa)

Miếu Thần Đá (tất cả lại viết hoa)

miễu Thánh (chữ miễu không viết hoa)

- Các tên người đều viết hoa theo lối Mỹ nhưng có gạchnối. Thí dụ:

Hoàng-Thiên-Y, Khổng-Tử, Lý-Tịnh, Na-Tra

Nhưng ở một chỗ khác lại viết:

Lê Bá Xuân (không gạch nối)

5) Lối viết hoa không thống nhất của Hoàng Văn Chí(1964) :

Về tên các quốc gia: Viết hoa theo lối Mỹ nhưng vẫn có gạch nối. Thí dụ:

Việt-Nam, Đông-Nam-Á, Đông-Dương, Hòa-Lan

Nhưng ở nhiều chỗ khác chỉ viết hoa chữ đầu:

Hoa-kỳ, Thái-lan, Ấn-độ, Trung-cộng, Tây-tạng,

Tên các nhân vật: Có lúc viết hoa theo lối Mỹ nhưng vẫn có gạch nối. Thí dụ:

Khuyển-Dưỡng-Nghị, Tôn-Văn, Vương-Dương-Minh

Thế nhưng ở những chỗ khác lại viết:

Phan-đình-Phùng, Tôn-thất-Thuyết (chữ lót không viết hoa)

- Nhóm, hội đoàn, đoàn thể: Viết hoa không thốngnhất, chỗ có gạch nối, chỗ không. Thí dụ:

Phong trào Cần-Vương

Phong trào Đông Du (không gạch nối)

Phong trào Văn-Thân

phong trào cộng sản (cả bốn chữ lại không viết hoa)

- Các địa danh viết hoa cũng không thống nhất.

Thí dụ: Thượng-Hải, Hồng-Kông, Trà-Lùng, Hàng-Bông, Làng Cổ-Am,Yên-Báy, Hải-Phòng

Thế nhưng ở những chỗ khác lại chỉ viết hoa chữ đầu mà thôi.Thí dụ: Hà-nội, Quảng-châu, Quảng-nam, Lạng-sơn, Dương-tư, Nam-đàn v.v…

6) Lối viết hoa của Duyên Anh trong Về Yêu HoaCúc (1970) :

- Đại lược về tên người, địa danh, tên trường học, tướchiệu Duyên Anh viết hoa theo lối Mỹ và bỏ gạch nối.

Thí dụ: Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Mai Thảo, Nguyên Sa, ĐinhHùng, Hàn Mặc Tử

Đại Học Văn Khoa, Đà Lạt, Hà Nội, Mỹ Tho

Thế nhưng còn hai chữ Sài Gòn thì Duyên Anh có lúc viết Sài-gòn(có gạch nối, chữ gòn không viết hoa) , rồi có lúc lại viết Sài gòn(không gạch nối)

- Tên các tờ báo, tạp chí lối viết hoa cũng không thốngnhất. Thí dụ:

nhật báo Đồng Nai, tuần báo Kịch Ảnh

tức là các chữ nhật báo, tuần báo không viếthoa)

thế nhưng lại viết: Đông Dương Tạp Chí (tạp chí lạiviết hoa)

- Các tác phẩm văn chương chỉ viết hoa chữ đầu, chữsau không viết hoa (tức theo lối cũ) . Thí dụ:

Ngày về, Lạnh lùng, Chân trời cũ

Nhưng ở chỗ khác lại viết Tiêu Sơn Tráng Sĩ (tất cả đều viếthoa)

7) Lối viết hoa không thống nhất của Hoàng Khởi Phongtrong Người Trăm Năm Cũ (1993) :

Hoàng Khởi Phong là cựu chủ nhiệm kiêm chủ bút Tạp Chí VănHọc trong khoảng thời gian từ 1989-1990. Dĩ nhiên với chức năng này ông phảiđọc lại và coi lại rất nhiều bài viết thế nhưng lối viết hoa của ông cũng khôngthống nhất – điển hình qua tác phẩm Người Trăm Năm Cũ.

- Các tước vị hoặc ngôi thứ trong gia đình đều viếthoa như:

Đề Thám, Cai Kinh, Cả Huỳnh, Cả Tuyển, Tổng đốc Lê Hoan…

Thế nhưng ở nhiều chỗ khác, các tước vị lại không viết hoa:

Thí dụ: vua Hàm Nghi, tướng Voyron, quan ba Lambert…

- Các điạ danh, cách viết hoa cũng không thống nhất:

Thí dụ: Phủ Lạng Thương, tỉnh Hà Đông, huyện Nhã Nam

(Phủ, huyện, tỉnh đều là đơn vị hành chánh thếmà phủ viết hoa còn tỉnh và huyện lại không viết hoa) .

- Các biến cố lịch sử đáng lý phải viết hoa lại khôngviết hoa.

Thí dụ: Cuộc khởi nghĩa Yên Thế, chiến khu Yên Thế. Đáng lýphải viết: Cuộc Khởi Nghĩa Yên Thế, Chiến Khu Yên Thế.

8) Lối viết hoa không thống nhất của Tạ Chí Đại Trườngtrong Tạp Chí Văn Học năm 2000:

Tạ Chí Đại Trường là cây viết chủ lực cho Tạp Chí Văn Họcsức học rất uyên bác nhưng cũng lại không để ý đến quy tắc viết hoa. Thí dụ:

Công Giáo (tất cả đều viết hoa)

Thế nhưng ở chỗ khác lại viết: Tam giáo (chữ giáokhông viết hoa)

Tự Đức kí Dụ: Đáng lý kí viết hoa lạikhông viết hoa.

truờng Bảo hộ (chữ hộ không viết hoa) nhưng lại viếttrường Chu Văn An (chữ an lại viết hoa)

Hồng vệ binh maxít phương Đông: (chữ phương khôngviết hoa) . Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết:

Văn Minh Tây Phương (chữ phương lại viết hoa)

Hồng quân Trung Quốc (chữ quân đáng lý viết hoalại không viết hoa)

Cộng hòa Đại Hàn (chữ hòa đáng lý viết hoa lạikhông viết hoa)

Phong trào Không liên kết Thế giớithứ Ba: Các chữ trào, liên kết, giới, thứ – đáng lý phải viết hoa lại khôngviết hoa.

9) Lối viết hoa của Nguyễn Hưng Quốc trong TạpChí Văn Học năm 2000

Nguyễn Hưng Quốc là cây viết chủ lực cho Tạp Chí Văn Học. Làmột nhà bình luận văn học rất kỹ lưỡng thế nhưng Nguyễn Hưng Quốc cũng khôngchú ý đến quy luật viết hoa.

- Tên các tác phẩm đều viết hoa như:

Truyện Kiều

Thơ Mới của Hoài Thanh

Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết:

thơ Nguyễn Công Trứ (chữ thơ không viết hoa)

- Các tên nhóm, hội đoàn đều viết hoa như:

Nhóm Sáng Tạo (chữ nhóm viết hoa)

trường phái Phê Bình Mới (đáng lẽ chữ trườngphái cũng phải viết hoa)

Rồi ở một chỗ khác lại viết:

nhóm Ngôn ngữ học tại Moscow (đáng lý phảiviết: Nhóm Ngôn Ngữ Học tại Moscow

II. Quy tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ

Trong văn chương Hoa Kỳ, viết hoa gọi là “capital letter”,còn viết chữ thường gọi là “lower case”. Đây là quy tắc thống nhất được áp dụngở khắp mọi nơi. Ít khi thấy nhà văn, nhà thơ, nhà báo Hoa Kỳ vi phạm quy tắcnày. Nguyên do chính là vì xã hội của họ đã ổn định cả hai trăm năm nay, việcgì cũng đã trở thành quy củ, nề nếp, có trường ốc. Ngoài ra tờ báo nào, nhàxuất bản nào cũng có một ban biên tập chịu trách nhiệm về vấn đề này chứ không “tựbiên tự diễn, tự đánh máy, tự in, tự sáng chế” như chúng ta.

Giới thiệu quy tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ ở đây khôngcó nghĩa là cái gì của Mỹ cũng nhất. Quy tắc nào cũng tốt cả nhưng vớiđiều kiện phải thống nhất. Không thể ở đầu trang viết:Phong trào Đôngdu rồi ở cuối sách lại viết Phong Trào Đông Du. Nếu cứ tiếp tục viếtlộn xộn như thế này thì con cháu chúng ta cũng sẽ tiếp tục thừa kế cái lộn xộnđó và hậu quả là cả ngàn năm sau nền văn chương Việt Nam vẫn cứ tiếp tục lộnxộn làm người ngoại quốc điên đầu khi nghiên cứu văn chương Việt Nam. Sau đâylà quy tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ:

1) Tên người:

Thí dụ: Bà Trưng, Bà Triệu, Bà Lê Chân, Ông Tô Hiến Thành,Ông Cao Bá Quát, Ông Tôn Thất Thuyết, Bà Đoàn Thị Điểm, Ông Đặng Trần Côn, CôNguyễn Thị Giang, Cô Bắc.

2) Các con vật mình nuôi và thương mến/thú cưng (pet):

con Vàng, con Vện, con Loulou, con Cún, con Bống

3) Các chức vụ, tước hiệu và các chữ tắt của tên:

Thí dụ: Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sử Gia Lê VănHưu, Chúa Sãi, Chúa Trịnh, Bà Huyện Thanh Quan, Đô Đốc Tuyết, Cai Tổng Vàng,Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn, Giáo Sư Nguyễn C. Hách, GS. Phạm B. Tâm, Đại Sứ CabotLodge, Tiến Sĩ Kissinger, Tổng Thống Roosevelt.

4) Ngôi thứ trong gia đình:

Thí dụ: Cô Bảy, Bác Ba, Bà Cả Tề, Thím Năm, Cô Ba Bến Tre,Cô Năm Phỉ, Út Trà Ôn.

5) Địa danh, dinh thự, công viên, thành phố, quận:

Thí dụ: Thành Phố Đà Lạt, Dinh Độc Lập, Phủ Thủ Hiến, PhủThủ Tướng, Tòa Thị Chính Nha Trang, Công Viên Tao Đàn, Vườn Hoa Con Cóc, VườnHoa Chéo, Công Viên Tao Đàn, Chùa Hương Tích, Thành Phố Hải Phòng, Quận HươngĐiền, Quận Châu Thành Mỹ Tho, Xã An Hội …

5) Bến, cảng, phi trường:

Thí dụ: Phi Trường Tân Sơn Nhất, Ga Hàng Cỏ, Bến Vân Đồn,Bến Sáu Kho, Bến Đò Bính, Bến Đò Lèn, Bến Nhà Rồng, Cảng Hải Phòng

6) Đường:

Thí dụ: Đường Trần Hưng Đạo, Xa Lộ Biên Hòa, Quốc Lộ 1, LiênTỉnh Lộ 7, Hương Lộ 8…

7) Chợ:

Thí dụ: Chợ Bến Thành, Chợ Đồng Xuân, Chợ Tân Định, Chợ BàChiểu, Chợ Lớn, Chợ Huyện Thanh Vân…

8) Núi, đèo, cửa ải:

Thí dụ: Núi Hoàng Liên Sơn, Núi Sam, Núi Ba Vì, Núi NgũHành, Núi Ông Voi, Núi Ngự, Đèo Hải Vân, Đèo Cả, Ải Nam Quan…

9) Sông, thác, hồ, suối:

Thí dụ: Sông Hồng, Sông Mã, Sông Chu, Sông Hương, Hồ HoànKiếm, Hồ Than Thở, Hồ Ba Bể, Thác Bản Giốc, Suối Giải Oan…

10) Vịnh, biển, đảo:

Thí dụ: Vịnh Hạ Long, Vịnh Cam Ranh, Rạch Cái Cối, Vũng Rô,Quần Đảo Hoàng Sa, Quần Đảo Trường Sa, Đảo Tây Sa, Côn Đảo, Hòn Bà, Hòn Chồng,Hòn Vọng Phu, Phá Tam Giang.

11) Ngày tháng:

Thí dụ: Tháng Giêng, Thứ Hai, nhưng mùa thu, mùa xuân (cácmùa lại không viết hoa)

12) Ngày lễ:

Thí dụ: Lễ Hai Bà Trưng, Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán, TếtĐoan Ngọ, Ngày Thiếu Nhi Toàn Quốc, Ngày Quốc Tế Nhân Quyền…

13) Nhóm, hội đoàn:

Thí dụ: Nhóm Sáng Tạo, Nhóm Ngàn Lau, Hội Đua Ngựa Phú Thọ,Hội Y Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ, Hội Ái Hữu Gò Công, Câu Lạc Bộ Lướt Sóng, MônPhái Vovinam, Môn Phái Thiếu Lâm, Trường Phái Siêu Thực, Trường Phái Dã Thú,Trường Phái Ấn Tượng.

14) Ban nhạc:

Thí dụ: Ban Thăng Long, Ban Tiếng Tơ Đồng, Ban The RollingStone, Đoàn Cải Lương Hương Mùa Thu, Đoàn Thoại Kịch Tiếng Chuông Vàng.

15) Báo chí, tựa đề các cuốn sách, thơ, bài báo, vở kịch,bức hoạ, bản nhạc, truyện, cuốn phim và tựa đề của một bài viết:

Thí dụ: Nam Phong Tạp Chí, Tạp Chí Bách Khoa, Nhật Báo NgườiViệt, Đoạn Tuyệt, Thơ Vũ Hoàng Chương, Truyện Kiều, Kịch Lôi Vũ, Trường Ca ConĐường Cái Quan, Cầu Sông Qwai…

16) Thánh thần và kinh sách:

Thí dụ: Trời, Phật, Chúa, Đức Thánh Trần, Bà Chúa Liễu Hạnh,Mẹ Âu Cơ, Kinh Kim Cang, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Kinh Coran, Kinh CựuƯớc..

17) Miền, vùng của một đất nước (nhưng khôngphải để chỉ phương hướng) . Thí dụ:

Miền Nam, Miền Bắc, Miền Trung, Vùng Cao Nguyên, Miền Tây,Vùng Tây Bắc, Bắc Bình Định…

18) Các biến cố lịch sử, tài liệu, mốc thời gian:

Thí dụ: Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ, Đệ II Thế Chiến, Thời KỳChiến Tranh Lạnh…

Thời Kỳ Bắc Thuộc, Thời Kỳ Trịnh – Nguyễn Phân Tranh, ThờiKỳ Phục Hưng, Nhà Hậu Lê, Bình Ngô Đại Cáo…

19) Ngôn ngữ, chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo:

Thí dụ: Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Hoa Ngữ, Nhật Ngữ, Việt Ngữ

Thái, Nùng, Dao, Mèo, Kinh, Thượng, Mường, Ra-Đê, Việt, Hoav.v…

Việt Tịch, Pháp Tịch, Ấn Tịch…

Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Ấn Độ Giáo, Hồi Giáo, Do TháiGiáo…

20) Tên các con tàu, xe lửa, máy bay hoặc nhãn hiệu xehơi:

Thí dụ: Tuần Dương Hạm Yết Kiêu, Khu Trục Hạm Vạn Kiếp, HàngKhông Mẫu Hạm Trần Hưng Đạo…La Dalat, Citroyen, Toyota v.v…

Thiên Lôi (Thunderchief) , Con Ma (Phantom)

21) Chữ đầu của câu trích dẫn:

Thí dụ: Trần Bình Trọng dõng dạc nói, “Ta thà làm quỷnước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”.

Xin quý vị nào nghiên cứu về văn phạm Việt Nam đóng góp thêmý kiến để sau này có thể hình thành một quy tắc viết hoa thống nhất cho vănchương Việt Nam.