Sông nước Hậu giang và Nguyễn Ngọc Tư

Phù sa nước đụckhó dòm

Nhớanh em khóc đỏ lòm con ngươi

Lần trước, bài Cái rầu bấttận của Nguyễn Ngọc Tư đã giớithiệu hai tác phẩm của tác giả này: Ngọnđèn không tắt Cánh đồng bất tận.Bài sau đây bổ túc và đề cập tới hai tácphẩm còn lại: Giao thừa Tạp văn.

Nắng Hậugiang mưa Tiền giang

Nhìn nhau mà lệ rớt hai hàng

Câu ca vọng cổ chìm trong tối

Mùi mẫn còn rung dưới nguyệt tàn

Từ Ngọnđèn không tắt qua đến tập truyện Giaothừa, NNT đã bỏ bớt được tínhchất học trò trong cách kể chuyện và ngay cảtrong lối viết. Tư trở nên già dặn hơn.Truyện kể cũng đơn giản thôi, nhưngmạch lạc hơn. Tập Giao thừa gồm 17tựa truyện cho 161 trang. Thể văn nói chuyện linhhoạt tự nhiên, không cường điệu ồn ào.Văn gắn bó với đời sống, chơnchất, không sần sùi ngổ ngáo như lối viết« mới » hiện nay. Cách nói thành thật hiềnhòa, không xốc táp ngang ngược. Ngườiđọc không thấy ở Tư cái cố gắng« làm văn chương », không có những câu vănthời thượng, trau chuốt, không có những kiểunói om sòm mà rỗng tuếch. Bình dị. Đơn giản.Dễ hiểu. « Có sao nói dậy ». Vậy thôi. Màtại sao phải nói rắc rối ? Nhiều khi nóirắc rối là nhằm để che đậy mộtsự trống rỗng, một cái dốt đặc nàođó ở mình. Cho nên phải « rắc rối hếtcỡ nói ! » cho thiên hạ tá hỏa và phụclăn ?

Trong tập Giaothừa, phần lớn bài viết có truyện – có chúttruyện, hay gọi là… Đôi khi bài viếtđược dựng lên quanh một chi tiết, quanhmột tình cảm thương ghét, quanh một quyếnluyến, một quan tâm, để ý, « có cảmtình » giữa các nhân vật trong truyện. Chẳnghạn : Giao thừa, Bởi yêu thương,Chuyện vui điện ảnh, Hiu hiu gió bấc, Mộtmối tình, Nhớ sông

Đọc vài batruyện khác nhau, có cảm tưởng Tư mê cảilương, mê điện ảnh, và cũng có thể là mêlàm đào hát luôn không chừng (?) Có gì mà lấy làmlạ ? Đã làm dân miền Nam mà không biết mê cảilương, không biết mê vọng cổ là mộtthiệt thòi lớn ! Truyện Bởi yêuthương nhắc tới gánh hát rã khiến chongười đọc ngậm ngùi. Hồi xưa, nhà tôiở cạnh rạp hát nên tôi cũng đã từngchứng kiến hai ba gánh hát cải lương nhỏ rãgánh tại chỗ vì trời mưa ế khách. Rồiđào kép, hề diễu, người đờn, con nít lânla đi xin cơm ăn trong xóm. Nhưng cũng nhờ lánggiềng cô bác thương tình nên không một ai bụngđói. Tình nghĩa đùm bọc đặc thù củangười miền Nam. Mưa Tiền giang nắngHậu giang. Những tay hảo hớn sống ngang tàng.Trái tim hào hiệp bao trời đất, Bốn biển anhem rượu rót tràn...

Ngoài mê cảilương, còn có cảm tưởng Tư bị ámảnh bởi tên gọi của các nhân vật. Những cáitên trở đi trở lại trong nhiều truyện khácnhau, như Ông Chín, San, Xuyến, Điệp, Diệu,Giang... Tưởng chừng như những nhân vậtđó có thật trong đời sống. Họ bịphăng cuốn trong dòng đời bất cưỡng, quanhquẩn trong rạch ngòi Hậu giang chằng chịt, nayđược Tư phân cắt thành những mẩutruyện ngắn. Biết đâu chừng khi nốiliền hết lại, những mẩu truyện ngắnnày sẽ kết hợp thành một truyện dài mạchlạc, một bức tranh đời éo le, lâm ly, ngang trái.

Còn một thứkhông thể nào thiếu được trong tất cảcác truyện của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là sôngnước: sông bốn phía, nước tư bề!Quơ chỗ nào cũng đụng nước, ngó chỗnào cũng thấy sông. Nước là nền, sông là dòng chongòi bút của Tư triền miên tuôn chảy, cuốn theonhững chữ nghĩa đầy ắp tình ngườinhư phù sa lợn cợn. Sinh đẻ ở miệtHậu giang, gắn bó với cuộc đất Cà maunhư Tư thì cũng không thể nào khác hơnđược. Dứt sông là dứt hơi thở, cạnnước là cạn máu huyết. Là mất hết cáilẽ sống còn. Tư đặt tựa truyện: Dòngnhớ (tr. 47). Nhớ gì? Nhớ sông (tr. 154).Nhớ sông, nhớ nước, nhớ da diết, nhớdai dẳng, nhớ muốn khùng, nhớ muốn điên.Nhắm mắt vẫn thấy, hôn mê vẫn thấy.Thấy hoài thấy hủy.

Truyện Dòngnhớ : Một người đàn ông (gọi là ba)trốn nhà theo chung sống với một ngườiđàn bà (gọi là ) trên ghe thương hồ. Haingười có con với nhau, nhưng rủi ro đứacon nhỏ bò lọt sông chết chìm. Người đàn ôngnghe theo lời má, bỏ sông lên bờ cưới vợkhác (gọi là ). Và tiếp theo đó, thỉnhthoảng trở lại neo ghe trên bến cũđể ngóng ba, người chồng giờ đâyđã vuột khỏi tầm tay mình. "(...) chuyệnxảy ra lâu rồi, nhưng người ta vẫn cònnhớ, vẫn còn cắm sào trước bến nhớ batôi, vậy mà biểu ba tôi quên cái rụp thì làm sao quênđược" (tr. 51). Cắm sào thì cắm sào,đậu bến thì đậu bến, nhưng “ngườita nhớ thương đứt ruột có thể chạyào lại để gặp nhau, nhưng vì lương tâmkhông làm được, đành ngồi đây ngó lên,ngồi ở trên ngó xuống" (tr. 56)

Còn ngườiđàn ông trên bờ cũng không ngớt ngóng ra sông mànhớ người thuở trước. "(...) đêmđêm cả nhà đi ngủ, ba tôi ngồi hút thuốc trênbộ vạt kê trước nhà, chống rèm lên, ngó ra sông"(tr. 50). "Những đêm đó, ba tôi hút thuốcdữ, cứ nhìn chong chong ra ngọn đèn đỏối, nhỏ nhoi, buồn hiu ngoài kia" (tr. 51) Tâm canrời rã, tuy có mặt đó mà cũng đồng thờivắng mặt: “Ông đang ở đây nhưng tâmhồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòngnước tự lâu rồi" (tr. 50)

Bằng lốiviết dung dị, Tư đã làm bật sáng lênđược cái tương tư của haingười tuy cách mặt nhưng không xa lòng. Tươngtư đôi chốn tình ngàn dặm, Vạn lý sầu lênnối tiếp mây… Cái thương nhớ tơi bờihiện lên theo từng hình ảnh rõ nét, khắc khoảitheo từng chữ viết dung dị mà đúng tận tâmcan. 

Rồingười đàn bà bỗng dưng bỏ bến sốngđi biệt, không còn bao giờ trở lại bếnxưa cắm sào mong ngóng nữa. Và cuối cùngngười đàn ông chết trong mong đợi, thithể vùi chôn ở vườn nhà. Người vợ chodù có hờn ghen hừng hực cũng thấu hiểuđược tấm tình khắng khít giữa ông chồngbền lòng và tình địch bền dạ của mình. « Mátôi vẫn không ngừng tìm dì, hỏi để làm gì, má tôinói để cho dì hay và nói với dì, nếu sống mà khônggần được, chừng nào chết, mời dì lênnằm trên đất vườn tôi » (tr. 57).Người đàn bà muốn giúp cho chồng mình chấmdứt dòng nhớ. Nhưng liệu được chăngkhi dòng sông vẫn còn đó, con nước vẫn trôi hoài,vẫn trôi xa tắp về miền bất tận. « Đólà nỗ lực cuối cùng má tôi làm để chấmdứt cái cảnh ba nằm bên má mà hồn vẫnhướng về những dòng sông miên man chảy »(tr. 57).

Những dòng sông…Ôi ! Những dòng sông… khiến chợt nhớ thơNguyễn Bính : « Sông đụng đâu sông, sônggặp sông, Thuyền xuôi theo nước, nước theodòng. Người về người gặp quê ngườiđó, Ta gặp ai đây giữa bụi hồng ? »

Và những dòngsông, những dòng nhớ của Tư vẫn cứ tuônchảy miệt mài, len lỏi trong khắp cùng ngõ ngáchHậu giang. Cuối cùng, dòng nhớ biến thành mộtnỗi nhớ mong khắc khoải: Nhớ sông, bàiviết chót trong tập Giao thừa. Mà không nhớ saođược, khi cả cuộc đời ba, cảcuộc đời má, cả cuộc đời hai con mìnhđều gắn bó bền chặt với sông nước.“Bây giờ hỏi lại, Giang nói không có con kinh, conrạch nào mà ghe chưa đi qua, không có đườngngang ngõ tắt nào mà ông Chín không biết. Xuôi dòng,ngược dòng, con nước kém, con nước rong...Không ai nói với ai, nhưng cả nhà ông đềunghĩ, chắc là sống như vầy hoài, như vầymãi thôi. Chị em Giang đùa nhau, sau này lấy chồng rariêng, ba cho mỗi đứa một chiếc ghe" (tr.156)

Giang tự nó nghĩa là sông,cái tên như một định mạng trói buộc từđời nào với rạch ngòi. "Giang không hiểusao mình nhớ hoài, nhớ ràng ràng cái ngày đó. Cho nên qua vàmlần nào, Giang đều kéo con Thủy ra, Giang chỉ, máchết chỗ này nè" (tr. 156). Má trợt sào téđầu đập vào cái gờ sắt, đôi chân còn bíuvào ghe, rồi cả thân người hụp vào lòng sông, chìmlĩm. Vợ chết, ông Chín vẫn tiếp tụcchở hai đứa con gái đi bán hàng bông xuôingược trên khắp các ngả sông ngòi. Thủy mêđất từ hồi nhỏ, từ thuở cònbồng. "Giang nhắc, ờ phải em ham đấtlắm, hồi nhỏ ghe đậu bến nào chếcũng coi em bắt mệt, cứ xoay lưng là em chổngmông cạp đất ăn ngon lành" (tr. 159). Chếlà tiếng Tiều châu để gọi chị mình.

Rồi cáimộng ước định cư trên đấtliền của ba đã (hay gần như) trở thànhsự thật: Giang lên bờ, lấy chồng tên Thuấnở Đập Sậy, có đất làm ruộng.Những tưởng một khi đã lên bờ địnhcư rồi là quên được sông. Nhưng liệu quênđược không? Thỉnh thoảng ông Chín ghé qua nhàThuấn thăm con gái và nhậu tì tì với thằngrể tốt bụng. "Ghé Đập Sậy, Giangđòi ông Chín ở lại một đêm, cho Giang xuốngghe ngủ với con Thủy. Giang than nức nở,"Trời ơi con nhớ ghe quá trời đấtđi”. Xuống ghe, Giang đưa tay rờ rẫm từngmón hàng, từng miếng sạp" (tr. 157). Rưọuvô ngà ngà, Thuấn than thở với ông già vợ củamình: « Thường thì cơm nước, quét dọn xong,để hở ra giờ nào Giang lấy xuồng chèođi giờ ấy. Trời đất, nó đi đâu?Thuấn cười chua chát, “Hổng biết, nó chèokhơi khơi vậy đó ba à, con cũng nghi bậy trongbụng, có bữa con rình đi theo, vợ con chèođã đời rồi nó buông chèo lủi vô đám lá,lấy tay vịn, ngồi ở đó. Rồi chèo về,vậy à » (tr. 158).

Trờiơi ! Nhớ tới nước này thì phải gọilà ghiền mới phải. Nhớ sông ! Hay làghiền sông, ghiền nước, ghiền bơi,ghiền chèo, ghiền cái mui ghe, ghiền cái sạp nằm,ghiền con sóng lăn tăn, ghiền dòng phù sa ngầuđục, ghiền tiếng nước khua bì bõm ? Màmột khi đã ghiền tới mức này là kể nhưhết thuốc chữa. Chỉ còn nước trả Gianglại cho sông nước mà thôi.

Xếp quyển Giaothừa lại, người đọc tự hỏiGiang có phải là người con gái thứ tư trongmột gia đình nào đó ở miệt Cà mau xa mút tí tè,nơi tận cùng đất nước : Cô Tư.Tư. Nguyễn Ngọc Tư, cô gái Hậu giang có cái nhìnhiền hậu, có nụ cười thắm thiết vànước da bánh ít mặn mòi?

Mưa Hậugiang nắng Tiền giang

Cô em kẹp tóc bịt răng vàng

Cẩn tim xanh đỏ càng quê lắm

Mắt liếc khua theo guốc rộn ràng...

Mưa Hậu giang nắng Tiền giang

Bến sông san sát những nhà sàn

Võng trưa kẽo kẹt em tôi hát

Gió đưa bông thắm nở về chàng

« Ầuớ… Gió đưa gió đẩy bông trang, Bông búp vềnàng bông nở về anh… Ầu ơ… » Nhà sàn,loại nhà nửa trên bờ nửa dướinước, dựng trên những chưn cột rắnrỏi đóng chặt xuống lòng sông, sàn lót bằng ván.Nhà sàn rất phổ thông ở vùng sông nướcđồng bằng Cửu Long, như Bạc liêu, Cà mau,Cần thơ, Vĩnh long, Mỹ tho…

Mãi đến khibước chân vào Tạp văn của NNT, Trămnăm bến cũ con đò tôi mới bắt gặplại được chiếc võng đưa và mái nhà sànở miệt phù sa của Tư. « Cửa sau nhà tôitrông ra sông. Tôi thường ví đó là một khung tranh, cólúc nó hiện lên những chiếc tàu cao nghệu, hùnghục đi qua, che khuất cả dãy nhà sàn bên kia sông… »(tr. 163)… « Chỗ tôi ngồi có chiếc võng congiăng ngang căn chòi de ra mép nước » (tr. 165).Nhà sàn còn đó, con đò còn đó, võng giăng còn đó, màtiếng « ầu ơ » ru em đã vỗ cánh bayđi mất biệt tự lúc nào. Có lẽ kể từsau năm 75, kể từ lúc Tư chào đời và ngủđưa trên võng, không còn ai nhớ hát ru con bằngnhững câu ca dao « ầu ơ ví dầu » nữa.

Thời tảncư ở Bạc liêu, lúc tôi 5 tuổi, ghe ba má tôi trôigiạt xuống tận vùng Đầm Chim, ĐầmDơi. Thỉnh thoảng ba tôi nhắc tới tên sông TrèmTrẹm ở miệt Năm Căn, tôi không nhớ rõmình đã có lần đi qua con sông đó hay chưa. Chotới lúc Tư bơi xuồng ba lá đưa tôi đithăm chợ nổi ở Cà mau, tôi mới biếtchắc là mình đang thả trôi trên dòng sông Trẹm. "Giữachợ nổi Cà mau, cảm giác như gặpđược những khu vườn của miệt sôngTiền, sông Hậu, như nhìn thấy những rẫykhóm, rẫy mía miên man dọc trên miền sông Trẹm quê mình"(tr. 136). Ở Bạc liêu, Cà mau, rất đông ngườiTriều châu chuyên nghề làm rẫy – với nhữngtiếng gọi nhau rất là chệt« Tiều » : tỉa, hia, chế, số, tùacủ, tùa nứng… (Nói Quảng nói Tiều !) SôngTrẹm, dòng sông ngầu đục đã chảy vàorẫy thơ của Lâm Hảo Dũng thời chinhchiến « Ấy dòng sông Trẹm xưa nay, Cònthương cây mắm rễ cài trên không. Lênh đênh emmột chiếc xuồng, Đời tôi lính trận cỏbồng chân mây ». Đời trai thời loạn.Một cuộc binh đao. Một cơn máu lửa tơibời. Bao nhiêu người đã vĩnh viễn nằmxuống trên xứ sở tang thương vì bomđạn ? « Hận người con muỗi vove, Nên trong cuộc chiến bạn bè giết nhau. Ấydòng sông Trẹm trôi mau… »

Hãy chậmdầm bơi lại để đi vào cái chợ nổicủa Tư và bắt gặp Chút tình sông nước.« Nằm giữa lòng thành phố Cà mau, quãng cuốisông Gành Hào, đứng trên cầu nhìn về phía mặttrời mọc, người ta có thể nhìn thấymột dãy ghe rập rờn xao động cả mặtsông, những cái chân vịt gác chổng lên loang loángdưới mặt trời » (tr. 134). Tư thích nóivề những cái chợ nho nhỏ họp nhóm chùm nhumở miệt ruộng rẫy, những cái chợ chộnrộn đầy ắp tình nghĩa, thương mến,thân thuộc, nơi mà mọi người gần nhưđều biết hết mặt nhau. Chẳng hạn cái Chợbên đường ở một làng quê hẻo lánh nàođó… « Như người phụ nữ chân quê,chợ nhỏ nhoi, hiền hậu, trầm tính dịu dàng(…) Buổi sáng sao mà dậy mùi thơm nồng hăngcủa rau húng lủi, húng cây, rau cần nước,cần rừng » (tr. 39) Nhưng gà vịt, cá tôm, raucủ trong vườn nhà bày ra đó chỉ để mongbán được, trả giá thấp cao, trông chừng,hoặc canh ngó thôi sao ? Không, không ! đâu phảichỉ có bao nhiêu đó. « Chị em chụm lại rômrả với nhau chuyện chồng con, chuyện hàng xóm,ruộng lúa, vườn cây… (chuyện xóm quê mà, nói biếtchừng nào cho hết) » (tr. 39) Khách từphương xa tới và có dịp qua ngang chợ, hãyđể ý. Hãy để ý cho tận tường, hãy ngócho thiệt kỹ, hãy hít thở cho thiệt nồng nànđi rồi sẽ thấy…

Nắng Tiềngiang mưa Hậu giang

Xe lam về tới miệt Ba Càng

Ruộng khô thổi nóng lùa chưn tóc

Tóc em thơm phức mùi dưa gang

Nhưng liệunói như vậy mà đã bày tỏ hết được tấmlòng của mình chưa ? Chưa ! Tư còn có thêmmột cái chợ nữa : Chợ của má. « Tôigọi những cái chợ ruộng dân dã này là chợcủa má. Bởi nó hiền lành, lam lũ như má. Bởichợ nhỏ nhoi, khiêm tốn như má, nhưng nó mangmột cái hồn sâu, mênh mông lắm nên người tanhắc nhở hoài, thương hoài như thương… mávậy » (tr. 151). Trong chợ của má, nhữngngười buôn thúng bán bưng là những ai ? « Họlà những người gắn bó máu thịt vớicảnh chợ quê này không chỉ vì mưu sinh mà là mốigắn bó thiêng liêng. Không có rau, không đi chợ, đâm…buồn. Có người lặn lội đi bán từng tráibình bát chín, không đủ tiền xe thì đi bộ,« miễn sao đỡ ghiền chợ » (tr. 153).Ở thành thị người ta ghiền quyền lực,ghiền tiền bạc, ghiền karaôkê, ghiền bia ôm,ghiền xăng nhớt, ghiền ma túy thì ở miệtruộng rẫy này, người dân quê họ… ghiềnchợ ! Một loại ghiền rất tốt chosức khỏe và càng thắt chặt thêm tình nghĩa xómlàng.

Đi vào thếgiới Tạp văn của NNT, người tabắt gặp một trời một biển tìnhthương và gắn bó. Và cũng chính vì bởi gắn bóliền tay liền ruột với đất đai màngười dân quê phải gánh chịu biết bao là phũphàng cay đắng, biết bao là nợ nần chồngchất, biết bao là thất vọng ê chề. Đôi bangười tự tử, rất nhiều ngườibắt buộc phải bán rẻ đất nhà mà ngậmngùi bỏ xứ ra đi trong hờn tủi và nước mắt.Rồi sẽ thấy.

Tạp văn chia làm 35 tựa trảiđều trên 186 trang. Cũng như trong ba tậptruyện trước của Tư, trên trang nào củaTạp văn cũng bắt gặp thường trựcchữ nghĩa và cách nói miền Nam, đặc biệt làmiệt Hậu giang của Tư. Đếm không xuể,kể không hết. Bút pháp cũng vẫn là giọng vănnói duyên dáng nhuần nhuyễn và tự nhiên của Tư.Lối viết này tạo cảm giác thân quen, gầngũi. Tuy nhiên, cũng nên cẩn thận, chọn lọckỹ và dùng chữ cho chính xác. Vì nếu cứ viếtphóng túng đẩy đưa theo hứng khởi, lối« văn nói » sẽ rơi vào sự dễ dãi,cẩu thả, làm mất đi phần đóng góp cầnthiết và quý giá của người viết : sự sángtạo. Một khi sáng tạo mất rồi thì tính cách vănchương của bài viết cũng sẽ mấtluôn, không còn lôi cuốn được ngườiđọc nữa.

Hai thểloại Tư thường dùng nhứt là tùy bút và ký sự.Đề tài khá đa dạng : tiếc thươngnhững vùng đất cũ, bàng hoàng trướcnhững đổi thay sau « giải phóng », lãngđãng những kỷ niệm về bạn bè ngày xưa,ám ảnh bởi cái nghèo xơ xác dai dẳng củangười dân quê, phẩn uất trước tháiđộ tắc trách và nạn tham nhũng của cánbộ nhà nước. Cái tính chất văn chươngở các tập truyện Giao thừa, Cánh đồngbất tận đã phải tạm gác qua một bên.Cũng dễ hiểu thôi. Chạm trán từng giây từngphút với thực tế cam go, khắc nghiệt, gai góc,thử hỏi còn ai hơi sức đâu mà thẩn thơvớ vẩn « Hôm nay trời nhẹ lên cao, Tôi buồnkhông hiểu vì sao tôi buồn ». Trong thời khắchiện tại, người dân quê bắt buộc phảiđối đầu với những khó khăn sờsờ trước mắt và bắt buộc phảinhận thức « Hôm nay trời nặng lên cao, Tôibuồn « tôi hiểu » vì sao tôi buồn » !Đọc Tạp văn mới thấu hiểuđược cái thực trạng thê thảm củangười dân quê miền Nam sau « giải phóng ».

Bắtđầu Tạp văn là một cuộc hành trìnhtrở lui về dĩ vãng, khi trời Trở gió.« Thoạt đầu, âm thanh ấy sẽ sàng từnggiọt tinh tang, thoảng và e dè, như ai đó dứng xangoắc tay nhẹ một cái, như đang ngạingần không biết người xưa có nhớ ta không »(tr. 7). Cơn gió gì mà lạ vậy ? Và cứ hiu hiunhư vầy hoài sao ? « (…) bây giờ (nó) lớnthành một dòng gió, xấp xải, cuống quýt xốc vàotấm tôn bên chái đông đã bị đứt đinhtừ mùa trước. Cồn cào. Nồng nhiệt. Màthiệt dịu dàng. Ôi ! Gió chướng » (tr. 7). Cơngió chướng mùa trước , cơn gió chướngnăm ngoái đã trở về thổi vào cõi lòng xốnxang của Tư những niềm nhớ không nguôi.

Tận cùngphương Nam đất nước, nơi mangđịa danh Cà mau, một mũi phù sa nôn nả lấntràn ra biển Thái bình, Đất mũi mù xa. « Nơiấy, những ngôi nhà đều không cửa, nhà mởtoang cho gió nam vào, chướng tới, bấc qua, nhìn nhà làhiểu người, chân thật đến bày cả ganruột » (tr. 11). Làm nhớ những ngôi nhà khôngcửa do chính bàn tay thợ mộc của ba tôi và anh hai tôichung sức dựng lên ở Bạc liêu, ở Vĩnh long.Một truyền thống Hậu giang còn giữđược. "Người Đất mũi sao màhiền từ, mến khách thấu trời thấuđất vậy không biết, dường như sốnggiữa bao la trời, bao la biển này, người taphải học cách thương nhau để khỏi côđộc” (tr. 14). Tùy bút Đất mũi mù xacủa Tư là một bài viết vô cùng nồng nàn thắmthiết về phong tục và con người đất Càmau. Khiến nhớ muôn trùng.

Gió chướngcòn đem về thêm cho Tư một nỗi nhớ khácnữa. Nhớ cái đầm nước mênh mông thuởtrước, bây giờ đã xa. Xa đầm thịTường. « Đầm Thị Tường làvùng đầm nước mênh mông với diện tíchmặt nước hơn bảy trăm héc ta, quãng rộngnhất gần hai cây số, rộng tay mạnh dầmnhư dân xứ này, từ bờ nam sang bờ bắcmất hơn một ngàn lát dầm, từ bờ tây sangbờ đông nhìn mút mắt » (tr. 20). Người dânđầm Thị Tường chuyên sống bằngnghề đánh lú cá tôm. Mà cá tôm hồi thời trướcthiếu gì, ê hề, ăn mệt nghỉ. Và một khiđã có mồi ngon rồi thì tất nhiên là phải cónhậu nhẹt. Cư ngụ chung quanh đầm là « nhữngngười hào sảng đậm đặc chất nambộ. Đàn ông nhậu một mâm thì đàn bà cũngmột mâm. Đàn ông say thì ca vọng cổ, (…) đàn bà saychỉ nhảy múa cho vơi hơi rượu đi »(tr. 24) Rất nhiều người từ đầm đãra đi để thành lập những xóm nổi tiếnglà kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thờitrước. « Nguời dân móc ruột mình ra mà nuôi cánbộ, sống chết với cách mạng » (tr. 24)Sống thì không biết sao, chớ chết thì thấy rõtrước mắt. Chết để nuôi hy vọng chonhững ngày mai tươi đẹp huy hoàng, chết trongniềm mơ ước một tương lai xán lạnrực rỡ cho con cháu mình mai sau, dĩ nhiên. Để rồicoi. Nhưng còn cái đầm ? Đầm ThịTường bây giờ ra sao ? « Chuyện cá tômnhiều vô kể quanh năm, chuyện một chiếc xuồngcon với vài tay lưới có thể nuôi cả gia đìnhđã quá xa vời. Chuyện xuồng đi tới đâucá nược đuổi theo đến đấy chỉcòn là cổ tích » (tr. 25). Phải. Cổ tích, nhưngmà là một cổ tích kết cuộc không có hậu.Buồn năm phút ! Hay buồn năm ngày, năm tháng,năm năm ? Buồn dài dài… Buồn mút mùa lệthủy !

Nhưng khéttiếng chống Pháp và « chống Mỹ cứunước » đâu phải chỉ có mỗi mộtmình cái Đầm Thị Tường. Còn một cái xã oanhliệt khác nữa. Nó là một trong ba xã vây quanhđầm. Ở đó cũng có toàn là dũng sĩcứu nước, và toàn là bà già giết giặc hếttrơn chớ bộ. Thiếu gì. Đếm không hết.Ở đâu ? Thì ở Hưng Mỹ chớ đâu.Người dân Hưng Mỹ can trường và trung kiênsố một. « Nhớ những người dân áo vá,tay lấm chân bùn nhưng một lòng theo Đảng, theocách mạng. Nhớ hàng ngàn cái hầm đào dướinhững vườn dừa bạt ngàn mà người Phápngười Mỹ không tìm được lối vào vìmiệng hầm nằm trong trái tim mỗi cụ già, emnhỏ » (tr. 43) Đó thấy chưa ? Nói cótrật chút nào đâu. Tới em nhỏ cũng là « connít giết giặc » luôn nữa, huống hồ làmấy bà già và mấy ông già !

Nhưng bâygiờ thì sao ? Xã Hưng Mỹ le lói tới mức nàosau cái ngày « giải phóng » năm 75 ? « Bamươi tháng tư này nữa là tròn 29 năm hòa bình. Conđường quốc lộ về ngang qua xã vẫn cahoài bài « Đường chỉ đẹp những khicòn… dang dở ». Xã có 3911 hộ, đã ngót 251 hộnghèo, 13 ấp thì một ấp rưỡi chưa cólưới điện » (tr. 43). Chỉ tiêu màđạt đến mức đó thì quả thực là caocấp, còn thành tích thì hết sức là hoành tráng, vậy cònđòi hỏi gì nữa cơ chứ ? « Bâygiờ đất này còn nghèo hơn trước, cái nghèolừa mị người xứ xa, lừa mị nhữngông quan kinh lý ưa kiểm tra lớt lớt » (tr.44). Kiểm tra lớt lớt là kiểm tra như thếnào cơ chứ ? Này ! Định xúc phạm và pháhoại Nhà nước đấy phỏng ? Nhànước đang bù đầu để xử lý mộtvấn đề lớn lao và trọng tâm vô cùng là vấnđề giáo dục. Vậy thì yêu cầu đườngsá, điện nước lẻ tẻ làm chi mà lắmthế ? « Hỏi cô con gái tên Trang đã họctới lớp mấy rồi, cô cười, nghèo quá,mấy anh em em hổng ai biết chữ » (tr. 45)Không biết chữ thì phải đi học chữ lấymột mình. Nhà nước đâu thể học chữ giùmcho nhân dân được ! Nhưng đâu phảichỉ có mỗi một cái « hổng ai biếtchữ ». Hưng Mỹ còn có rất nhiều cái« hỏng có » khác nữa. « Hồi đóThị Tường có « ba không », không theo giặc,không bỏ Đảng, không bỏ cách mạng. Bây giờthì « tùm lum không ». Không gạo, không tiền, không cá,không rau cỏ… » (tr. 47) Này này ! Hết phá hoại Nhànước, bây giờ còn định bôi bác chếđộ đấy phỏng ?

Tới đây xinmở ngoặc nói về một hiện tượngđang xảy ra ở đất nước ta. Khi đikaraôkê, kể từ Đà lạt ra tới Huế, ởđâu các em nhỏ hậu phương cũng đềuxổ ra toàn là giọng miền nam. Ngay cả tiếng« Huệ » cũng lai giọng nam kỳ. Tò mò « hỏingười em nhỏ lạc loài từ đâu ? » Emthì nói từ Chợ Gạo, Mỏ Cày, Bến Tranh,Chương Thiện… Em thì « thành thật khai báo vớicách mạng », em là em nhỏ Bến Tre, Giồng Trôm,Đồng Tháp, Cái Nhum… Toàn là những vùng ủng hộkháng chiến ngày trước. Và toàn là gái miền Tây.Bật ngửa ! Và khi em Chợ Gạo cất giọngmũi nhão nhẹt dân dã để lâm ly biểu diễnkaraôkê thì vẫn cứ nhứt định là « anhcầm tầm vông vạt nhọn, em cầm dao phay sángngời, hai đứa mình phom phom chạy qua cầukhỉ quyết chí diệt thù, phất cao lá cờ cáchmạng… » khí thế vô cùng hùng dũng. « Rằng quenmất nết đi rồi ! » Cái « tiếngxấu » mà các cô gái miền Tây phải hứng chịunày, Tư cũng đã có dịp nói phớt qua trong Kínhthưa anh nhà báo ! Khi bạn bè hỏi em gái từđâu đến, em gái đã chẳng đặngđừng, lí nhí, thẹn thò thưa thốt : « Thưa,em ở Cà mau » (và tôi làm sao tránh được ánhmắt cười cợt, nghi ngại của ngườithị thành khi biết tôi là gái miền Tây) » (tr. 105).Đóng ngoặc.

Trở lạiHưng Mỹ. Lần này, sau khi đọc kỹ Ngậmngùi Hưng Mỹ lần nữa, thấy ởđoạn kết Tư cũng có nhen nhúm lên một chút hyvọng trong lòng bà con ta đó chớ. « Nghe mấy ôngthầy coi nước nói năm nay tôm tép khá lắm đây(…) Không biết có phải là những lời an ủi,vực nhau đứng dậy rồi bị đồnđại ra không, nhưng tôi biết ơn mấy ônglắm lắm, khi nhen lại cái khát vọng sống tronglòng người Hưng Mỹ. Ờ, sống để màbước tới » (tr. 50).

Từ xưađến nay, hy vọng vẫn luôn luôn là liều thuốctrị được bá bịnh – trừ bịnh ỉachảy dĩ nhiên ! Chú Hai sạt nghiệp vìđổi qua nghề nuôi vịt, nhưng ác thay, lạitrúng nhằm mùa dịch cúm gia cầm. Nợ ngân hàng lútđầu. Vậy mà trong nhà vẫn không ngớt tiếngcười rộn rã. « Rầu cũng nghèo màcười cũng nghèo, sao mình hỏng cười,hỏng hy vọng cho đỡ khổ hả cô ? »(tr. 113) Chí lý ! Thiếm Hai duy vật biện chứngMác Lê như vậy rất là chí lý, nghe lọt lỗ taihết cỡ nói. Dân Hậu giang ta bao giờ cũnglạc quan... hết thuốc chữa. Vì có sao đâu? “Lúathất thì hy vọng trúng mùa sau, giá rẻ như bèo thìcứ đinh ninh năm sau sẽ được giá.Lứa này tôm chết thì chờ lứa sau, lúc thảbọc tôm nhỏ như cây kim xuống đầm, vẫnmong mai này còn gặp lại chúng" (tr. 113/114). Tưchợt bừng mắt trước một điềuhết sức hiển nhiên – hiển nhiên tớimức người ta không để ý, như cái không khímình đang thở chẳng hạn. “Tôi nhận rarằng, nông dân mình xưa rày có món đặc sản“độc” lắm, nhờ món đó mà họ sốngtừ thế hệ này sang thế hệ khác, từđời này sang đời khác. Đó là "hy vọng"(tr. 113)

Hết vớt tômchết thì tới chôn vịt sống. Hết cúm gia cầmthì có liền "bão tôm" thổi tới "từtốn, lặng lẽ, mà bào mòn sức chịu đựngcủa con người”. Lo gì ! "Vớt từng con tômnhỏ bằng ngón tay út lên lòng rưng rức, đứtruột (...) Có ai làm gì nó đâu mà nó chết, mình quý nó cònhơn mạng mình nữa mà? (...) Má tá hỏa khi biếthầu hết tôm giống trên thị trường khônghề được kiểm dịch" (tr. 118) Này!Đừng có vu oan cho Nhà nước nhé cô Tư! Nhànước ta ngày đêm không ngừng lo lắng đào sâugiải pháp cho nhân dân. Nhà nước không ngừng quyhoạch, không ngừng chuyển dịch cơ cấusản xuất. Người khác chỉ rành có sáu câu,chứ Nhà nước ta thì rành tới sáu câu... rưỡi."Người dân bao đời gắn bó với cây lúabây giờ nôn nả cho nước mặn vào đồngđể nuôi tôm" (tr. 99). Cũng hợp lý thôi. Cây lúacần nhiều nước ngọt mà thu hoạch lạiquá ít ỏi thì thay nước mặn vào! Còn chờ gìnữa? "Chỉ mới một mùa tôm (đầu)thôi, bác à, nhưng đó là mùa tôm người nông dân vùngchuyển dịch vắt kiệt mình ra trước baonỗi cực nhọc, buồn vui" (tr. 116) Vắtkiệt? Cô đừng có quá nhời chứ cô Tư. Đãvắt kiệt rồi thì làm sao vẫn cứ còn vắthoài được hoài? "Chuyện tôm chết nông dânđã rành sáu câu rồi, chỉ khác, đây là năm thứtư tôm chết, nghĩa là năm thứ tư nông dân Cà mauvắt kiệt mình trong nỗi lo đói nghèo" (tr.108). Năm thứ tư? Tội nghiệp quá nhỉ ?Nhưng ba bốn năm nay chịu đựng nổi,chắc bà con nông dân ta vẫn hãy còn đủ hy vọngđể mà lướt qua năm thứ năm. Và khôngchừng còn "dư sức qua cầu" luôn nămthứ sáu.

Mùa "bão tôm"từ tốn và nạn tôm chết hà rầm dàn trải lêthê trên nhiều bài viết của Tư trong Tạpvăn: Ngậm ngùi Hưng Mỹ, Thư từ quê, Điqua những cơn bão khô, Chờ đợi những mùa tôm,Gió mùa thao thức... Trong cảnh cùng quẩn,người dân quê ngước nhìn lên "trên" đểmong cứu giúp. “Trên" đây không phải là "trênTrời" hay "ơn Trên", mà là "ởtrên". Rồi "ở trên" mới ra tay ban phépmầu ra làm sao? "Mấy ông Nhà nước khôngnghĩ ra cách nào cứu tụi tui, để vầy hoài,hai năm nữa không chết đói cũng chết vìtrộm cướp cho cô coi, bần cùng sanh đạotặc, ông bà mình dạy vậy" (tr. 108) Làm gì mà lo xaquá vậy? Mới chỉ có bấy nhiêu đấy thôi mà bàcon đã kêu trời như bộng ! Cũng tại bà conhết đấy chứ. "Báo chí than bà con mìnhthiếu thông tin, thiếu hiểu biết rầm trời,các chú "ở trên" nhằn, bà con mình nóng vội quá"(tr. 118) Thì lỗi tại bà con rành rành đây này! "Thuởđời nay, năm nào mấy ổng cũng lên ti vi kêunăm này phấn đấu đạt năng suất caohơn năm trước, khuyến khích giống mớinày trúng hơn giống cũ, vậy mà làm ra hột lúatrần thân, bán không có giá, mấy ổng đổ thừatại nông dân làm cho cố mạng nên bán khôngđược" (tr. 184) Nhưng đổ thừanhư vậy cũng đâu có trật. Làm chi mà làm chocố sát, ai mà ăn dộng cho hết. Hơn nữa, bâygiờ bà con ta lại còn bày đặt “phấnđấu” với lại “năng suất” năng siếtrùm beng. Hồi xưa ở Cờ Đỏ, má tui cũngcó một thời cày thuê cấy mướn, nhưng đâucó biết “phấn đấu” với “năng suất” làcái khỉ mốc gì! Vậy mà vẫn có gạo ăn hoàihoài.

Bà con cứđòi hỏi Nhà nước phải có bổn phậnđối với nhân dân. Chớ còn cái bổn phậncủa nhân dân đối với Nhà nước bà conđể nó ở đâu? Bộ quăng nó cho chó ănhết rồi hả? "Khi đôi bàn tay gầyguộc của tôi vuốt lại những tờ bạclẻ nhàu nát lem luốc mồ hôi, dầu nhớt...để nộp thuế cho đằng phường, nghĩtới mấy vụ tham nhũng động trời ngaytại quê mình, nghĩ tới những bữa tiệc vungvinh tiền triệu, chắc cái mặt tôi buồn hếtbiết, mà tôi còn khóc, hổng chừng..." (tr. 166) Thôimà Tư! "Lau mắt đi em, đêm đã khuya rồi,buồn chi nữa em?" Tư hãy bắt chước cáilạc quan kinh niên của má mình. "Ai biểu làm nông dânlàm chi. Chỉ hy vọng mấy ông "ở trển"làm cách nào cho dân bớt khổ, má tôi nhấn mạnh,bằng cái giọng hết sức tin tưởng, "Mấyổng hứa rồi..." (tr. 185). Đó thấychưa! Ngày nào mà mấy ổng còn hứa thì bà con tavẫn còn có "quyền" hy vọng. Hy vọng dâng cao,hy vọng miên man, hy vọng tràn trề, không biếtđể đâu cho hết. Vậy thì bà con còn than cáinỗi gì? "Thôi thôi... Đủ lắm rồi! Xinđổi giùm cho tuồng khác. Thành thật cám ơnđồng chí".

Khi bị vây kínbốn bề bởi những khó khăn của đờisống, người ta thường có một phảnứng rất tự nhiên để bảo tồn lấymình: chạy trốn ! Bỏ đi nhậu, đikaraôkê, đi du lịch. Hoặc coi phim bộ, đi ăntiệm, đi gặp gỡ bạn bè, nói chuyện tào lao,đàn đúm ca hát. Nếu không làm gì được hếtthì người ta chạy trốn thực tại bằngcách lùi sâu vào cõi không thực. Thả hồn về nhữngkỷ niệm đẹp ngày cũ. Về những kýức có bóng mát cỏ cây, có tiếng nước vỗ láchtách, có tiếng lá khua tâm sự rì rào. Về những dòngsông thương nhớ, về những đò xưabến cũ, về những cuộc tình dang dở bâygiờ đã mây trôi...

Nắng Tiềngiang mưa Hậu giang

Sông Mỹ đò đưa bến Vĩnh Tràng

Bên chùa tôi đã ôm em siết

Xa rồi còn tiếc chuyến đò ngang

Cái phảnứng để tự vệ của Tư trướcnhững bức bách của đời sống cũngvậy thôi. Trong đời Tư cũng đã từng cónhững dòng sông cũ, những bến đò xưa,những Trăm năm bến cũ con đò. "Trămnăm để lỡ hẹn hò, Cây đa bến cũ conđò khác đưa". Một bến đò cũ nàođó để Tư thả hồn mình về đónổi trôi, hầu dìm bớt đi những nỗimuộn phiền đang vây khổn tư bề. "Bếnđò nằm cạnh nhà. Có thể nghe đượctiếng bước chân người xoèn xoẹt lạiqua, nghe mũi đò chạm lịch kịch vào bến, vàtiếng chèo chém ngọt vào mặt nước những látcắt dày. Và nhiều khuya nghe tiếng gọi đò xao xác (...)"(tr. 163). Rồi tự hỏi biết đâu chừng mìnhđã nghe lộn tiếng gì thành tiếng gọi đòcủa ai đó . "Đêm nghe tiếng ếch bên tai,Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò" .Khách đi đò cũng khác nhau lắm. Có khi là nhữngngười phụ nữ đi chợ sáng lấy đòtrưa trở về bên kia sông. Có khi là đám học tròđứng ngồi lóc nhóc trên đò qua bờ bên nàyđể tới trường. "Có người quađò rồi quay về, có người không trở lại.Bến đò cũng là nơi nhiều đứa con gái quasông lên thành phố rao bán mình trong những "chợvợ", để lại mấy thằng con traichiều chiều ra bến đón đã đời mớingơ ngác, trời ơi, mình đang chờ ai đây?"(tr. 166). "Chiều chiều chim vịt kêu chiều, Bângkhuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau...” Dứtmột cuộc tình. Tàn một đời trai. Rồiđời trinh nữ. Khóc đi em !

Dòng sông cũ, conđò xưa đã êm đềm đưa Tư lâng lâng vào Đôibờ thương nhớ. Chiều qua, Tư nhậnđược thư của bạn mình báo sẽ cốthu xếp trở về cố hương thăm nhà. "Rồibạn kể ra một dọc những cảnh moi từký ức cũ, nào là những tàn cây trứng cá đằng gócsân, hàng điệp đỏ gie mình ra mé nước che cáibến, mấy chiếc xuồng ba lá buộc dậpdềnh vào chân cầu" (tr. 123) Bạn xa xứvậy mà đã 12 năm rồi. Mười hai nămđã trôi qua, biết bao là vật đổi sao dời trêncái xứ sở nát tan này. Và cũng biết bao làđổi thay trong công cuộc vá víu lại đấtnước. Vì vậy, khi thấy bạn mình nhắcnhở những cảnh xưa mà bạn còn nhớ, Tưđâm lo ngay ngáy cho bạn mình. "Nhà cũ củabạn tôi nằm đâu? Cái xóm nhỏ nhìn ra sông, đónnắng từ sông, uống gió từ sông đó bây giờđâu? Thở dài. Những ngôi nhà trống huơ, hoang tàn,trơ trơ gạch ngói, cái còn cái đã ngụp mộtnửa dưới nước..." (tr. 124). Khi thưbạn nhắc lại cảnh cũ người xưa,Tư cũng thầm tiếc và ước ao mình cóđược phép mầu để dựng lại ngôi nhàcũ, trồng lại hàng điệp đỏ, trồnglại cây trứng cá lá mềm năm xưa, và còn nhiềuthứ khác nữa... Nhưng rồi Tư bỗng giựtmình chợt nghĩ lại. "Tỷ dụ như tôilàm được những điều phi thườngấy thì bạn của tôi ơi, cái hồn quê, hồnđất năm xưa đã không còn. Mà tánh bạn cũngnhư tôi, khăng khăng hoài: "Hoa nào đẹpbằng hoa tuổi nhỏ, Ổi nào ngon bằng ổinăm xưa”. Kỷ niệm của những ngày tuổitrẻ vô giá" (tr. 128). Chẳng những vô giá màlại còn hết sức cần thiết nữa. Ôm vào lòngmình kỷ niệm dĩ vãng (và ôm luôn cả hy vọngtương lai) như cái phao nổi, hầu giữ chomũi mình còn lé đé trên mặt nước trong hiệntại để mà thở. Cũng được !Cũng tốt thôi !

May mắn thay !Trong lúc Tư còn lặn hụp chới với giữa dòngkỷ niệm ngoài khơi thì còn có được mộtngười đứng trụ hai chưn rất vữngtrên đất liền để mà... lạc quan. Phải !Có thiệt. Và Tư đã gặp con người lạcquan đó: nhỏ Bèo! "Má ơi ! Con quạ nóđứng chuồng heo, Nó kêu bớ má bánh bèo chín chưa?" "Chín rồi ! Đừng có kêu nữa, coichừng tắt tiếng !" Bèo ! Một nhỏbạn lâu quá chừng không được giáp mặt. Màgiáp mặt rồi thì sao ? "Bèo rối rít mờitới nhà chơi, mà, cái giọng của con bạn,trời ơi, nó tươi rói, giòn tan, sung sướng,tự hào (...) Rồi nó cười hực hỡ, rạngrỡ, như thể nhà nó là một thiên đường"(tr. 60) Một thiên đường ! Thiệt sao ? Cái nhàcủa con nhỏ đó ra làm sao mà nó le lói quá cỡ thợmộc vậy ? "Ai dè nhà nó nằm tuốt trong conhẻm Cỏ sau lưng siêu thị. Đó là một conhẻm dài, hẹp te, tối tăm, sình bùn ọp ẹp,ngoa ngoắt (...) điệu này, tới cuối hẻm,chắc nhà chỉ còn bằng cái miễu Ông Tà" (tr.60) "Hoàng hôn dần xuống, tiếng chuông chiềudần dần vẳng xa, em Bèo xanh lướt nhẹ góthồng từ từ trôi sâu vào hẻm Cỏ tím, đểrơi lại sau lưng mình một mùi hươngvương vấn của cỏ nội hoa đồng...”Tuyệt ! Thơ mộng ngất ngư. Lãng mạnthấu trời ! Vậy mà chê con người ta là chê ra làmsao ? Còn cái nhà của cô nó hoành tráng tới mức nào mà dámchê nhà con người ta một cách không có cơ sở vàdấu ấn gì hết trọi vậy ? "Nhà tôinằm ngang chợ phường, quay lưng với sông,ngửa mặt đón bụi đường, trong nhà khônglúc nào ngớt tiếng xe, tàu chạy (tôi ngồi viếtvăn ở đó, giữa tiếng động chói gắtkhủng khiếp của tàu xe, tiếng nhạc nhùngnhằng từ xe kẹo kéo, tiếng những ngườiđàn bà bên chợ cá cự cãi nhau)" (tr. 61/62). Cóvậy thôi à ? Vậy mà cứ tưởng đâu nhà cô làmột thiên đường vô cùng cao cấp, đáp đúngtiêu chuẩn ISO và đầy đủ hết mọichất lượng quốc tế chớ. Làm conngười ta hết hồn, thiếu chút nữa té lăncù dưới đất !

Con nhỏ Bèo cólời tha thiết như vậy, nhưng khi lò dò quanh co,quẹo mặt quẹo trái cho tới hết cái hẻmCỏ để bước vô được thiênđường của con nhỏ Bèo rồi thì thấy nóra làm sao ? "Mái lợp bằng lá cũ mèm, ngửacổ đã thấy lấp lánh trời sao. Nướcbưng ra để cái cộp, khách chưa kịp uốnglá mục đã rớt vào, nên nước nghe thơm mùi lálắm" (tr. 61) "Hà ! Cái lầy mời chếdẩm xà há !" Tuy nhiên, biết đâu nhờ uốngđược nước trà có pha mùi lá lợp nhà thâm niêncủa nhỏ Bèo mà Tư ngộ được thiềnvà ngộ được luôn cái “Tri túc tiện túc, đãitúc hà thời túc" của người xưa ? "Tôitới chơi một lần tự dưng buồn, nghethất vọng quá trời đất, nghe trong lòng cómột chút ghen hờn. Con Bèo học hành lở dở,nghề nghiệp cũng chẳng cao sang, sao nó lạingộ chữ "tri túc", còn mình thì không ?" (tr.61) Phải nói "chưa" thì đúng hơn là"không". Cần phải kiên cường họctập cách mạng thêm nhiều hơn nữa, cầnphải khởi nghĩa thêm nhiều bận nữa, may ra.Bởi lẽ, "biết đủ thì là đủ”,chớ biết tới mức nào mới là đủ bâygiờ ? Rồi nghĩ tới nghĩ lui gần nát óc,Tư mới gẫm ra: "Tôi chân thành cảm ơnnhững cuộc đi xa, nó làm cho tôi biết nhớ nhà,ờ, miễn là nhà-của-mình, thôi thì, sao cũngđược" (tr. 63). Trong thâm tâm mỗingười, ai cũng thiết tha có được Mộtmái nhà. Là cái chắc!

Bước rađường gặp con nhỏ Bèo lúc nào cũng tíchcực lạc quan và lúc nào cũng sẵn sàng cấttiếng cười tươi rói thì sức mấy màbuồn nổi ! Mà Tư cũng hên lắm nghe. Ngoài connhỏ Bèo vui vẻ kinh niên ra, Tư còn có thêmđược Một người bạn không biếtviết văn. Và cũng không bao giờ biết buồnluôn: Nguyệt ! Bữa Tư đang uốn tóc ởtiệm cạnh nhà, cái đầu chơm bơm, tóc taicuốn từng cuốn như chả giò thì bà tiênNguyệt thình lình giáng thế. Bất ngờ gặp nhau,mừng thôi hết biết. Khi Tư "thành thật khaibáo với cách mạng" là mình làm nghề viết văn,Nguyệt “à" lên một tiếng cảm thôngrồi chia sẻ nỗi niềm với Tư bằng mộtcái giọng hết sức là tội nghiệp xót xa: "Vậyà, ờ, ráng đi, ai biểu hồi nhỏ mầygiỏi văn làm chi". Lời của nó thiết thađến nỗi làm tôi tin rằng mình tội nghiệpthiệt, thấy thương quá đi. Người khôngviết văn sướng hơn mình nhiều" (tr.52) Vậy à ? Nguyệt tỏ vẻ chê cái nghề viếtvăn, còn nó, nó có làm được chuyện gì"khá" không ? "Nó giỏi giang, chu đáo, làmviệc nào ra việc ấy (chắc là vì không biếtviết văn như tôi ?). Nấu món nào chồng cũngthích, bạn bè chồng tới nhà hai năm sau còn nhắcbữa ăn cá lóc luộc mẻ nghe ngon tới bây giờ"(tr. 52). Được lắm. Nấu nướng nhưvậy rất là đáng khen. Nhưng về mặt nghệthuật, cái sở thích, cái “gu” của nó có “siêu" lắmkhông ? "Nó nói nó không thích phim Mỹ, khó hiểu lắm,hổng giống phim Đài loan, coi lần nào cũng khócmuốn chết" (tr. 53)

Tới nhà bạnchơi, đưa mắt ngó lên cái kệ sách lèo hèo thấykhông có quyển nào mang tên tác giả Nguyễn NgọcTư, nhà văn “nhớn” bèn hỏi chớ bạn ta đọcsách gì ? "Nguyệt kể ra nào là "Tình như mâykhói", "Yêu mãi người ơi", "Mai em theochồng"... loại sách vừa dễ hiểu vừa cóchữ bự coi không mỏi mắt" (tr. 55). Dĩnhiên ! Tại sao phải kiếm chuyện khó mà làm ? Tạisao phải kiếm chữ nhỏ mà đọc cho lòi conmắt ? Rồi than mệt. Mệt cầm canh !

Nguyệt kiếmcách gặp gỡ bạn bè lu bù. Còn Tư thì bậnviết văn (làm đại sự !) Khi bận viếtthì đành gác chuyện đi chơi với bạn quamột bên. Khi rảnh rang tìm bạn để chơi vàđể nhậu (dô ! dô !) thì chẳng có ma nào. Buồnnăm phút ! Và trong một phút hoang mang, nàng chợt ớnlạnh rùng mình ba cái rồi lắng nghe cô đơnchầm chậm lấn vô cái tâm hồn tội nghiệpnhỏ bé bằng cỡ bàn tay năm ngón của mình. "Nguyệtthì chẳng bao giờ cô đơn như thế. Nóđể dành cả một tâm hồn không vướngbận để quan tâm, chia sẻ, chu toàn hết thảychuyện lặt vặt của cuộc đời. Còn tôi..."(tr. 56) Còn tôi thì sao? Bộ tính xuống vọng cổ saođây cô Tư ? Nói trước đi cho người tahờm sẵn để mà phựt đèn màu đúng bon chonó ăn rập. “Còn ta... Ta phải chịu bấy nhiêuđiều đau khổ cay đắng như dày vò nhưcấu xé cho tan nát mảnh tơ (ơơờ)... lòng!" (Phựt đèn !) Ủa, bộ tưởng vậymà hổng phải vậy hả ? "Còn tôi thì đangđứng trên biển văn chương mênh mang chưathấy đâu là bờ bến, đường đờicũng dở sống dở chín, chưa đâu tới đâu,hai vai không trọn vai nào" (tr. 56) "Chưa thấyđâu là bờ bến" ? Bộ bỏ quên ống dòmở nhà rồi hả Tư ? Mà cũng nên coi chừng vàbảo trọng lấy thân mình nghe Tư. Cứđứng hoài trên biển văn chương thì bảođảm sẽ bị dính mực tèm lem. Và hơn nữasẽ còn bị ướt hết quần áo rồicảm lạnh, ách xì nhảy mũi um sùm đó nghe.

Khi làm cái nghề đibiển hết sức phiêu lưu, thỉnh thoảng Tưcũng kiếm người thân để trút bớtbầu tâm sự, xả bớt ra một đôi lời chonó nhẹ nhàng... (quá trời mây !) Đó là Lời cho mácủa Tư. Thỉnh thoảng về quê thăm má, Tưthan thở “làm cái nghề viết văn cô độc,cực khổ quá má ơi”, má tôi lặng lẽ buồn hiu.Buồn vì không hiểu văn chương, không thể dìudắt, nâng đỡ tôi trên con đường nhọcnhằn đó, nhưng má không hay rằng má giúp tôi nhiềulắm” (tr. 155) Tư hằng tin như vậy. Và sẽvẫn còn vững tin như vậy nữa, tin triềnmiên, tin dài dài, lòng tin không hề hao hớt đi theo ngàytháng. Tư luôn luôn tin rằng "Vẫn còn những ngàydài phía trước, mai tôi sẽ về thưa với má, dùtôi nói câu này hơi trễ tràng nhưng có còn hơn không,rằng chưa có bao giờ má tôi dạy tôi viết văn,nhưng những gì tôi viết ra đều mang hơithở cuộc sống mà má trao tặng" (tr. 158).

Ai cũng cómột bà mẹ để mà ôm ấp, để màthương, để mà nhớ. Đối với tôi,tiếng “" gợi hình ảnh những "bàgià quê hương", những bà già có làn da nhăn nheothơm tho mùi đất, có bàn chân nứt nẻ phù sa, cótrái tim từ bi vô lượng, trái tim đó đã bơm máuvào cuống rún tôi từ lúc tôi còn nhỏ xíu, lớn chưabằng đầu ngón tay. Má tôi là một trong những bàgià quê hương đó.

Nắng Hậugiang mưa Tiền giang

Nắng mưa mưa nắng chín mùa màng

Vòm cao tre trúc nghiêng nghiêng bóng

Trâu nghé lim dim núp nắng chang

Đốivới tôi thì là vậy. Nhưng đối với Tư,tiếng má gợi lên hình ảnh gì ? "Má tôi là nông dân,suốt quãng thời gian cầm bút, mỗi khi tôi viếtvề người nông dân tôi lại nghĩ tới má. Trongtôi hiện lên một khuôn mặt sạm đen nửađêm thao thức, nghe gió về lo lúa đang trổ ngoàiđồng bị lép hạt" (tr. 154). Mà đâuphải chỉ có lo suông vậy thôi. Má làm quần quậtcả ngày. Làm từ sáng sớm tới trưa, từtrưa tới chiều, từ chiều tới sẫmtối. Có khi ban đêm cũng làm luôn. Làm ruộng, trồngrau, tưới rẫy, làm giàn cho dưa leo, mướp,đậu rồng, xới đất, lên giồng, xáchnước... Bấy nhiêu công việc đó theo ngày thángđã dần dần biến hai bàn tay má trở thành "cụcmịch, với những đốt xương thô mà sànggạo như múa trong trưa vắng (...) Kẽ tay máđầy những mảng nước ăn, đaunhức tới từng đốt xương sao má khôngthan hả má ?" (tr. 154/155). Đã là dân quê mà lại cònlàm ruộng thì tới mùa cày cấy, má phải lội bùn,lội nước vô cùng vất vả. Lội năm nàyqua tháng nọ. "Đôi chân ấy từ mườituổi đã biết khóc. Chân má ngắn, ngón ngắn,chỉ rộng bề ngang nên nhìn nó to bè bè" (tr. 182).Ngó thấy bàn chưn má sần sùi nứt nẻ Tưcũng xót ruột lắm. Thỉnh thoảng Tư bỏra chút thơì giờ để chăm sóc cho má. “Lâu lâu,như buổi tối nay, tôi nơ chân má lên cắt móng chomá, lại thấy móng dày thêm sớ, phèn che bít cái phầnhột gạo đục ở trong, vàng hoe hoe vàng.Dưới gan bàn chân, chai nhiều chỗ, phía gót thìnứt nẻ như đồng khô mùa hạn. Gió trởbấc, chỗ nứt tứa máu, lại nứt sâu hơn"(tr. 182/183). Hồi nhỏ, tôi không để ý coi bàn chưnmá tôi ra làm sao, nó có trần ai như vậy không. Chớ bàntay đục đẽo của ba tôi thì ly kỳ lắm !Ô dề kịch cợm thì chẳng nói gì. Đằng này,móng tay của ba tôi nó dày mo, không có kềm đục nào màcắt cho nổi. Chỉ còn nước lấy cưathợ mộc ra mà cưa vòng vòng – như người tacưa sừng nai vậy đó. Mạt cưa và móng tayrớt ra cả đống. Chịu thua ông già !

Quanh nămsuốt tháng loay hoay với lúa gạo nên má Tư gắn bócả cuộc đời mình vào cây lúa. Theo má tin, "lúacó linh hồn. Không biết má trao cho đám lúa còn non nớtkia bao nhiêu tình thương yêu, bao nhiêu hy vọng (...) Bà cótình thương yêu ruột ràng vào cây lúa, bà tin tưởngmạnh mẽ vào kinh nghiệm nắng sương mấymươi mùa ròng rã của mình. Để coi, tính mùa nàynữa, má tôi làm ruộng suốt 38 năm" (tr. 180).Ba mươi tám năm má gieo mạ, má trồng lúa, máchăm sóc lúa, má gặt lúa, má gánh lúa, má đập lúa, mátải lúa... Cực quá là cực ! Bởi lẽ đó màsuốt nhiều năm qua, má chỉ mơ ước cómỗi một cái máy vừa gặt lúa vừa đậplúa. “Khi mà đồng đất đã biền biệtbóng trâu, bạn chịu khó đẩy xuồng trên ruộngcạn, tải từng bó lúa như ba má tôi dướinắng hè. Má tôi đã bao nhiêu năm rồi đẩyvơi vơi trời biển" (tr. 181). Làm nông dâncả một đời cực khổ, má sống chếtvới ruộng, với lúa, với từng hột gạo.Bởi lẽ đó, khi nghe ông Y thâm lạm chục ngoàitỉ, má buồn khủng hoảng luôn. "Quen nếtnông dân, bà tính, được số tiền đó bàphải làm ruộng chắt mót suốt... đời. Lúarẻ rề, một giạ vài chục ngàn, mấy ông"ở trển" làm mất tính ra hàng tỉ tỉgiạ chớ ít đâu" (tr. 183). Hàng tỉ tỉgiạ bị thất thoát ! Còn ai bụng dạ nào màtiếp tục sống chết nhọc nhằn với lúa,tiếp tục nghèo xơ nghèo xác, tiếp tục lặnlội năm này qua năm khác, mùa này qua mùa khác, rốtcuộc nghèo vẫn hoàn nghèo.

Nhưng má chỉnhọc nhằn có một mình ên má thôi sao ? May mắn thay, mácó một đứa con gái chí hiếu và đảm đangsố một. Tư đã từng sát cánh theo má lặnlội vất vả, khổ "cực trần ai khoaicủ" trên khắp các kinh rạch, để đi bángạo bằng xuồng. Có khi kinh rút nước, lạchcạn teo chỉ còn lại bùn. Vô phương bơixuồng. Bèn nghĩ ra cách tải gạo tải cám bằngxe đạp. Tư rành cái vụ này lắm ! Đủthứ sáng kiến. Nhưng “ai khen tôi giỏi lòng má tôicũng đau, vì đã để tôi dang dở conđường học tập”" (tr. 157). Rồi cólần Tư theo má đi mua so đũa về đểbán lại ngoài chợ quê, cũng vẫn bằng xuồng.Khi về xuồng phải vượt qua một conđập. Nhằm lúc mưa nhiều, đập xảnước kinh tràn ra như thác, lăm le nhận chìmchiếc xuồng khẳm lừ. "Má chống chỏiđằng lái, tôi nhảy ào xuống nước nắmmũi xuồng kéo đi, qua đập, ướt nhưcon chuột, má khen tôi giỏi mà sao nước mắt márươm rướm vậy ?" (tr. 156).

Thấyngười ta đi theo chủ trương chuyểndịch sản xuất, nuôi tôm kiếm đượcnhiều tiền quá, má cũng muốn chuyển sangnghề nuôi tôm để thử thời vận. Nhưngrồi “bão tôm" thổi tới, tôm chết nhưrạ. Tuy nhiên, má cũng vẫn cứ thử nữa.Thử nữa, năm này qua năm khác, và Chờđợi những mùa tôm tới. Bởi lẽ "Mávà con tin rằng, dù lần lữa rồi thì những mùa tômsẽ tới. Nó sẽ tới để thay đổisố phận, cuộc đời mỗi người (...)Những con người lam lũ cực nhọc cảđời xứng đáng được trả côn” (tr.122). Với tấm lòng ngay thẳng quê mùa chất phácsuốt cả đời mình, má luôn luôn hằng tin nhưvậy. Vái trời cho niềm tin của má trở thànhsự thật trong tương lai. Một tương laithiệt gần, trong lúc má hãy còn sống. Còn sốngđể cho con kịp về thăm.

Con cũngmuốn về thăm lại má

Thăm dòng sông Hậu nắng lưa thưa

Có cây dừa lão thân gầy quá

Đứng khóc theo mùa con nướcđưa... ( )

Cám ơn Tưđã ân cần dẫn dắt tôi về thăm lạimiền đất Hậu giang, nơi Tư và tôi đã sinhra và lớn lên một thời. Cám ơn Tư đãđưa tôi tới thăm Ngọn đèn không tắtở cái Xóm Rạch nhỏ nhít, đưa tôi đi đón Giaothừa trong một chợ tết còn ngổn ngangdưa hấu và hoa xuân. Tư cũng đã dắt tôilội bộ rã chưn băng qua Cánh đồng bấttận. Và cuối cùng Tư đã đưa tôi tớigặp gỡ bà con mình trong Tạp văn đểthấu hiểu và cùng chia sẻ những nhọc nhằn,những khó khăn mà người nông dân tay lấm chân bùnphải đối đầu trong cuộc vật lộn vớinhững bất trắc của thời tiết, củađời sống, của mưa gió từng mùa, từngnăm, từng tháng, từng ngày. Đi với Tư trongchuyến viễn du, tôi cũng đã có dịp khám phálại những trận nắng Tiền giang rát da, vànhững cơn mưa Hậu giang rượi mát. Cám ơnTư, cám ơn Tư.

Trong cuộc hànhtrình này, tôi chợt nhận ra giữa Tư và tôi cónhiều điểm tương đồng. Tưthương loài vật, tôi cũng thương loài vật.Tư có vịt xiêm Cộc, con vịt mù, và chim bìm bịp.Tôi có vịt xiêm Đại bàng, em vịt vàng nhỏ vàmột con chim sáo rất khôn, lần nào cũng bay xuốngđậu lên vai lúc tôi đi học về. Tư có bàmẹ quê với bộ mặt sạm đen và bàn chưnchai nứt. Tôi có bà già quê hương với nụcười tre trúc và bàn chưn nứt nẻ phù sa. Và cònnhiều thứ nữa, như viết văn, như lochuyện trên trời dưới đất, như nhớsông nhớ nước, như thương cây mắmtiếc cây bần chẳng hạn. Không thấy Tư nóivề những mối tình đầu hay tình cuốicủa mình. Còn tôi, tôi có Hoa, nụ hôn đầu tiên bênbờ sông Định tường. Tôi có Tuyết,người tình quán nước Tiền giang thuởhọc trò, người con gái đã cùng tôi chia sẻnhững nhục cảm đầu đời, hoan mê,chết giấc.

Nhờ Tư,thình lình tôi sực nhớ lại hết nhữngngười đã ân cần dìu dắt tôi đi suốtmột quãng đường dài đầy bất ngờ,cho tôi nhận ra rằng, dù tôi có vấp ngã nhiềulần, cuộc đời này vẫn hết sứcvồn vã, hết sức nồng nàn, hết sứcđẹp đẽ. Những người thân, những côgái đã cùng tôi chia sẻ một thời những cuộctình hừng hực, những mái nhà ấm cúng, nhữngbữa cơm đạm bạc, những vui buồnlớn nhỏ, giờ đây đã nằm sâu trong lòngđất. Lần nào về thăm quê hương, tôicũng cố lặn lội đường sá trắctrở để được tới quỳ lạy vàthắp một nén nhang tưởng niệm trên mộ ba mámình. Nhưng mộ của Tuyết, tôi không biết nónằm nơi nào, và cũng chưa hề một lầntới thăm. Trải qua biết bao cuộc binh đaongụt trời lửa sắt, biết bao cuộc tangthương vật đổi sao dời, ngôi mộ vùi chônthân thể dấu yêu một thời ôm ấp, giờđây chắc chỉ còn là một nấm đất mònlạng hoang tàn...

Mưa Hậugiang nắng Tiền giang

Nhiều đêm không ngủ dạ mơ màng

Nhớ người nhớ đất mùi quêcũ

Ôi nắng Tiền giang mưa Hậu giang !