Góp phần sáng tỏ những vấn đề của bài Dạ cổ hoài lang

Kiều Tấn

LỜI NÓI ĐẦU

Bài Dạ cổ hoài lang – tiền thân của bản Vọng cổ bất hủ ngày nay, tuy đã có không ít tài liệu nói về tiểu sử, xuất xứ, tên đề tựa, nhạc-lời và hơi-điệu gốc, những dị bản…, nhưng hiện tại vẫn còn khá nhiều chi tiết chưa được làm rõ hoặc không thống nhất với nhau. Đó là vấn đề đã ảnh hưởng không ít khó khăn cho những ai muốn tìm hiểu, giảng dạy, học tập và biểu diễn bài ca “vô tiền khoáng hậu” này.

Qua một số tư liệu lịch sử, văn bản và đĩa hát xưa được bổ sung gần đây, bằng phương pháp so sánh, đối chiếu, ký âm và phân tích, chúng tôi bước đầu có những phát hiện và nhận định mới về:

  • Năm sinh và nơi sinh của nhạc sĩ Cao Văn Lầu.
  • Trường hợp, nguyên nhân sáng tác, việc đặt tên và năm ra đời tác phẩm..
  • Bản Hoài lang.
  • Bản gốc của bài Dạ cổ hoài lang.
  • Nhạc và lời gốc bài Dạ cổ hoài lang.
  • Đổi tên tác phẩm.
  • Hơi-điệu của bài Dạ cổ hoài lang nguyên gốc và hiện nay;
  • Những biến đổi của bài Dạ cổ hoài lang;
  • Việc chuẩn hóa bài Dạ cổ hoài lang…

Từ kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi vận dụng để thử dẫn giải lại những nét chính trong lịch sử hình thành và hoàn thiện của bài ca, nhận diện những biến đổi của tác phẩm, đồng thời đối chiếu và đề xuất về bản chuẩn của bài Dạ cổ hoài lang.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các quý nhạc sư, nhạc sĩ, nghệ nhân, nghệ sĩ và tất cả các anh chị, bạn hữu gần xa đã hỗ trợ, giúp đỡ chúng tôi hoàn thành bài viết này.

Hạ-Thu, 2019
Kiều Tấn



1. Khởi nguồn sáng tạo

1.1. Sự lan tỏa ngày càng mạnh mẽ của phong trào Đờn ca tài tử khắp Đông – Tây Nam Bộ tác động đến sự ra đời của bản nhạc

Vào những năm nửa cuối thế kỷ XIX, Nam Bộ đã có nhiều nơi sinh hoạt đờn ca tài tử. Mở đầu cho phong trào là các nhóm ở Vĩnh Long và Sa Đéc, về sau lan ra rộng khắp, trong đó nổi tiếng tập trung ở các vùng: Sài Gòn - Chợ Lớn, Cần Đước - Tân An, Vĩnh Kim - Cái Thia (Mỹ Tho), Bạc Liêu… Các nhóm tài tử này liên kết với nhau, vô hình trung chia theo hai khối:

Khối tài tử miền Đông (Biên Hòa - Sài Gòn - Chợ Lớn xưa) với thủ lĩnh là Nguyễn Quang Đại[1] ở Cần Đước, bên cạnh là các văn nhân, nhạc sĩ tài hoa như: Sáu Thới, Tám Hạnh, Cao Quỳnh Diêu, Cao Quỳnh Cư…

Khối tài tử miền Tây (tập trung vùng Vĩnh Long - Sa Đéc - Mỹ Tho xưa) với thủ lĩnh là Trần Quang Quờn[2] ở Vĩnh Long, hợp lực cùng các văn nhân, nhạc sĩ nổi tiếng như: Phạm Đăng Đàn, Nguyễn Liên Phong, Nguyễn Tùng Bá, Tống Hữu Định…

Cả hai khối đều có những đóng góp rất lớn trong việc cải soạn, sáng tác mới bài bản, hệ thống các vấn đề học thuật âm nhạc, giảng dạy và truyền bá nhạc Tài tử theo cách riêng của mình. Trong khối miền Tây, hoạt động đáng kể nhất là nhóm tài tử Bạc Liêu với người đứng đầu là Lê Tài Khí[3] cùng các nhạc sĩ môn đệ danh tiếng sau này: Bảy Kiên, Cao Văn Lầu, Ba Chột, Trịnh Thiên Tư…

Từ những năm đầu thập niên của thế kỷ XX, mục lục bài bản tài tử phát triển phong phú với những sáng tác mới của các nghệ nhân cả hai khối. Nếu như trước đó, Ba Đợi của khối tài tử miền Đông có những bài bản như bộ bát Ngự: Đường Thái Tôn, Vọng phu, Chiêu Quân, Ái tử kê, Bắc Man tấn cống, Tương tư, Duyên kỳ ngộ, Quả phụ hàm oan; bộ ngũ châu: Kim tiền bản, Ngự giá, Hồ lan, Vạn liên, Song phi hồ điệp thì, tiếp đến Nhạc Khị của nhóm tài tử Bạc Liêu có bộ tứ bửu: Minh hoàng thưởng nguyệt, Ngự giá đăng lâu, Phò mã giao duyên, Ái tử kê

Không dừng lại với số lượng đó, khối tài tử miền Tây sau này (từ năm 1919 trở đi) còn cho ra đời hàng loạt tác phẩm mới, như của Ký Quờn: Hiệp điệp xuyên hoa, Thanh đình điểm thủy, Kim oanh trịch liễu, Anh vũ năng ngôn…; Cao Văn Lầu: Thu phong, Dạ cổ hoài lang, Chiết hoa, Giọt mưa đêm…; Ba Chột: Liêu giang, Ngũ quan, Mẫu đơn, Tam quan nguyệt…; Trịnh Thiên Tư: Hận tình, Đông mai, Thu cúc, Hạ Liên v.v…

1.2. Chủ đề “Chinh phụ - chinh phu” trong sáng tạo do Nhạc Khị khởi xướng trong nhóm tài tử Bạc Liêu

Thành công trong lĩnh vực sáng tác của nhóm tài tử Bạc Liêu có vai trò to lớn của người đứng đầu, đó là phương cách đào tạo môn sinh của thầy Nhạc Khị. Ông chủ trương người học đờn hành nghề sau này không chỉ là nhạc công mà còn phải là một nhạc sĩ sáng tác, không chỉ thuần nghệ thuật mà còn vị nhân sinh, đem lời ca tiếng đàn phục vụ đất nước và con người trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.

Trên tinh thần đó, Nhạc Khị tập cho môn sinh sáng tác các bài bản mới ngay khi thấy khả năng có thể. Giao bài cho học trò bên cạnh đề tài thông thường, ông đặc biệt nhấn mạnh đến chủ đề “Chinh phụ - chinh phu” – lấy từ tích “Tô Huệ chức cẩm hồi văn”[4] trong bản Nam ai, nói lên lòng chung thủy của người vợ trông chồng đang chiến đấu ngoài biên ải. Đây cũng là kiểu ẩn dụ khéo léo hòng qua mặt nhà cầm quyền, phản ánh nỗi bi thương, ly tán đoạn trường của bao gia đình trong cảnh nước mất, nhà tan thời đó.

Nội dung này đã được các học trò ông thấm nhuần và thể hiện thành công qua một số tác phẩm, tiêu biểu như: Liêu giang, Tam quan nguyệt (Ba Chột), Đưa chồng ra mặt trận, Chinh phụ thán, Sầu chinh phụ (soạn lời – Trịnh Thiên Tư)…, đặc biệt là bài Dạ cổ hoài lang của Sáu Lầu.

1.3. Vài nét về tiểu sử và sự ly biệt tình nghĩa vợ chồng của nhạc sĩ Cao Văn Lầu

Nhạc sĩ Cao Văn Lầu sinh ngày 22-12-1890[5] tại xóm Cây Cui, thôn Thuận Lễ, tổng Thạnh Mục Hạ, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, tỉnh Gia Định (nay là xã Thuận Mỹ, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An).

Ông xuất thân từ gia đình bần cố nông, có cha là Cao Văn Giỏi tức Chín Giỏi cũng là một nghệ nhân nhạc lễ, mẹ là bà Đỗ Thị Tài. Gia đình gồm sáu anh em, ông đứng thứ sáu nên mọi người thường gọi là Sáu Lầu.

Thuở nhỏ ông theo cha mẹ đi tha phương cầu thực khi vừa lên bốn, cuối cùng vào năm 1900 gia đình định cư tại rạch Ông Bổn, nay là phường 2, thành phố Bạc Liêu và mất tại đây vào ngày 13-8-1976. Năm 1901, cậu bé Lầu được tạm gửi vào chùa Vĩnh Phước An làm bạn với kinh kệ, cho đến ba năm sau lại trở về nhà học chữ Quốc ngữ. Năm 1908, Sáu Lầu theo học nhạc Lễ và nhạc Tài tử với thầy Nhạc Khị. Vào năm 1915, Cao Văn Lầu lập gia đình với cô Trần Thị Tấn (1899-1967) đang độ tuổi trăng tròn.

Đến năm 1917, theo giao bài của thầy Nhạc Khị về bài nhạc chủ đề “Chinh phụ vọng chinh phu”, nhạc sĩ Cao Văn Lầu đã phác thảo ngay bản đờn gồm 22 câu, nhịp hai nhưng chưa hoàn chỉnh.

Công việc sáng tác vẫn đang trong quá trình tìm tòi, cân nhắc thì đến năm 1918 gia đình ông xảy ra một biến cố. Cuộc hôn nhân bình dị và tưởng chừng hạnh phúc ấy của ông đã trải qua một tình cảnh đến xé lòng và đứng trước bờ tan vỡ. Nguyên do vì sau ba năm ăn ở với nhau mà vợ ông không sinh một mụn con nào. Theo quan niệm phong kiến lúc bấy giờ, việc này là rất nghiêm trọng vì nhà trai coi như tuyệt tự, không có con nối dõi tông đường, người vợ sẽ bị đuổi ra khỏi nhà chồng đúng với câu “tam niên vô tử, bất thành thê”. Vâng lời mẹ, Sáu Lầu đành ngậm ngùi chia tay người vợ trẻ nhưng trong lòng của cả hai đều ăm ắp một tình yêu nguyên vẹn thuở ban đầu.

Vậy là công việc để hoàn thành tác phẩm phải gác lại, vì ông không còn tâm trí đâu mà đầu tư sáng tác…

2. Quá trình hình thành, hoàn thiện và đổi tên tác phẩm

Tình cảnh ấy kéo dài khoảng một năm, với sự yêu thương còn mặn nồng và nỗi nhớ âm thầm ngày một gia tăng, đôi vợ chồng trẻ đã kín đáo thỉnh thoảng tìm đến nhau khiến tinh thần Cao Văn Lầu có phần ổn định trở lại, công việc sáng tác được nối mạch.

2.1. Bản Hoài lang

Lúc này, tức vào năm 1919, một mặt ông muốn có “đứa con tinh thần” dành riêng tặng vợ, mặt khác ông cũng muốn hoàn thành tác phẩm để còn trình thầy. Vậy là một công đôi việc, trên cơ sở của bản đàn phác thảo trước đây, ông phát triển trên một nét nhạc buồn, chia cắt, nói thay tình cảm nhớ thương chồng của vợ mình nhưng trong sâu thẳm cũng ánh lên niềm lạc quan, hy vọng.

Bản nhạc không lời mà Cao Văn Lầu dành riêng tặng vợ được ông đặt tên là Hoài lang tức “Nhớ chồng”. Bản này có thể lúc đầu vẫn là 22 câu, nhưng về sau ông quyết định cắt bớt còn 20 câu, giai điệu như sau[6]:

*) Cao độ thực tế của Fa, Sol và Do = Fa+, Sol+r và Do+r [dấu + = cao hơn trong khoảng nửa cung bình quân, r = rung].

Bản này, theo phân tích của chúng tôi, toàn bài thuộc điệu Oán 1 (điệu thức Oán )[7] trên cơ sở thang âm: Hò, Xư, Xang+, Xê, Cống [tức Re, Fa, Sol+, La, Si với Hò = Re] và bậc bổ trợ Phan+ = Do+.

Thông thường trong ghi chép bản đàn nhạc Tài tử và Cải lương, tất cả loại bài bản đều ghi lược giản theo chữ đàn kìm (vì đây là cây đàn “thầy”, đàn chủ lực cầm nhịp) và được gọi là “lòng bản”. Dựa vào lòng bản người đàn biến hóa, tô điểm thêm sao cho phù hợp với tính năng nhạc khí mà mình sử dụng. Bản Hoài lang trên là bản đã được biến hóa khi biểu diễn đàn cò, để quy về lòng bản phải lược giản lại theo chữ đàn kìm. Do tác giả không để lại bản gốc, nên chúng tôi dựa vào bản này phục hiện lại lòng bản cho tiện việc đối chiếu.

Ký âm theo nhạc truyền thống:

Hoài lang
(dây Bắc-Oán – theo Kiều Tấn)

  1. Xề Xang Xê Cống
  2. Liu Xệ Liu Cồng Xề Xư Xang
  3. Cống Xê Xang
  4. Xề Xư Xang Hò     
  5. Xề Xế Xang Xư Xề
  6. Xế Xư Xề Xang Xư Xế Xang
  7. Xề Xang Xê Cống
  8. Xê Cống Xang Xê Cống Xư Xang
  9. Cống Xê Xang Lịu
  10. Xề Cống Xang Xê Cống Xư Xang
  11. Xư, Xang Cống Xê Xang
  12. Xề Xư Xang Hò     
  13. Xang Hò Xang Xê Cống
  14. Xê Cống Xang Xê Cống Xư Xang
  15. Liu Xệ Liu Công Xê Xáng Xàng
  16. Xế Xáng Xề Phạn Liu Xáng Liu
  17. Xề Cống Xê Xang
  18. Xề Cống Xê Xang Xư Xang
  19. Liu Xệ Liu Công Xê Xáng Xàng
  20. Xế Xư Xề Xáng Xư Xế Xáng Liu.

Lưu ý: Tất cả các chữ nhạc Xang trên thực tế đều bằng Xangr+. Câu 9 kết Lịu tức Hò luyến lên Xư. Bản này đàn kìm theo dây Bắc-Oán = Xề-Liu nên âm thấp hơn Xề là Xàng ở kết câu 15 sẽ không diễn tấu được, buộc phải nâng toàn bộ câu này lên một quãng tám và câu 16 cũng nâng lên theo cho liền một mạch nhạc. Tương tự như vậy đối với câu 19 và 20.

Như vậy, lòng bản Hoài lang ký âm theo nhạc 5 dòng sẽ như sau:

*) Cao độ thực tế của Fa, Sol và Do = Fa+, Sol+r và Do+r [dấu + = cao hơn trong khoảng nửa cung bình quân, r = rung].

2.2. Bài Dạ cổ hoài lang (v.1)

Sau khi hoàn thành nhạc bản Hoài lang, Cao Văn Lầu tiếp tục dùng lòng bản Hoài lang để đặt lời ca theo đề tài của thầy Nhạc Khị giao. Ban đầu tác giả viết lời với 22 câu nhạc, nhưng nghe theo sự góp ý của bạn hữu[8] ông quyết định bỏ bớt hai câu cuối [giống như câu 5 và 6] còn 20 câu.

Vào mùa Trung thu, tác phẩm cũng tạm gọi là hoàn thành nhưng tác giả còn phân vân chưa biết đặt tên tựa như thế nào cho phù hợp, bởi nội dung lời ca bây giờ không còn là nỗi niềm riêng của vợ chồng ông nữa.

Bài này được tác giả ghi lại theo bút tích như sau[9]:


Bút tích viết tay của nhạc sĩ Cao Văn Lầu (1974).

Theo đó, bản lời ca có một số chữ gạch xóa chính là lời ca gốc ban đầu mà tác giả vừa viết xong và trình thầy – tạm gọi là bản (v.1)[10]:

  1. Từ, từ phu tướng
  2. Báu kiếm sắc phong lên đàng
  3. Vào ra luống trông thơ nhàn
  4. Năm canh mơ màng     
  5. Trông ngóng trông tin chàng
  6. Tấm gan vàng càng lại thêm đau
  7. Lòng dầu say ong bướm
  8. Xin cũng đừng phụ nghĩa tào khang
  9. Đêm luống trông tin bạn
  10. Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
  11. Vọng phu vọng luống trông tin chàng
  12. Sầu, năm canh mơ màng     
  13. Đó chàng chàng có hay
  14. Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
  15. Bao thuở đó đây sum vầy
  16. Duyên sắt cầm tình thương với nhau
  17. Nguyện cho chàng
  18. Đặng chữ bình an
  19. Trở lại gia đàng
  20. Cho én nhàn hiệp đôi với đó đây.

Lưu ý: Về mặt từ ngữ, ngay lúc ban đầu tác giả đã dùng từ “sắc phong” [trong câu 2] và “nhàn” [trong câu 3 và câu 20]. Sau này, cũng chính tác giả nhất trí sửa lại thành “sắc phán” [trong bản v.2] và “nhạn” [trong bản v.3], theo sự góp ý của bạn hữu. Đây cũng là cơ sở cho thấy cả hai cách sử dụng từ trên đều bắt nguồn từ tác giả bài ca.

Khi đem đối chiếu lời ca bản (v1) với nhạc của bản Hoài lang, ta thấy:

Các câu có lời ca gạch xóa gần như đều vận với từng chữ nhạc bản Hoài lang, trong khi lời ca được chỉnh sửa thì không:

Chữ nhạc Hoài lang: Lời trong câu có gạch xóa: Lời trong câu chỉnh sửa:

5. (Xề) Xế Xang Xư Xề Trông ngóng trông tin chàng Trông tin chàng
6. Xế Xư Xề Xang Xư Xê Xang Tấm gan vàng càng lại thêm đau Gan vàng càng lại thêm đau
12. Xề Xư Xang Hò      Sầu, năm canh mơ màng      Xin đó chớ phụ phàng     
13. Xế Xang Hò Xang Cống Đó chàng chàng có hay Chàng chàng có hay

Không như trong ca khúc luôn có nhạc và lời đi đôi với nhau, ở bản nhạc truyền thống ký âm theo lòng bản lời ca không nhất thiết bám sát từng chữ đàn mà chỉ cần tuân thủ dấu giọng chữ nhạc chính nhịp, còn khoảng giữa hai nhịp có thể linh hoạt.

Do đó, nhạc Hoài lang và lời ca bản (v.1) khi hòa lại nghe vẫn ổn vì vẫn giữ được cấu trúc của lòng bản. Duy chỉ có âm dứt câu 1 và câu 7 có vẻ như thanh điệu lời ca và chữ nhạc không ăn khớp với nhau [thanh dấu sắc vs thanh ngang]:

Câu 1: Từ, từ phu tướng [Hò Xề Xang Xê Cống ]
Câu 7: Lòng dầu say ong bướm [Hò Xề Xang Xê Cống ]

(Chính vì như vậy nên mới gọi là chưa hoàn chỉnh, do trình độ sáng tác của tác giả lúc ban đầu còn hạn chế).

Đối chiếu với bài Nam ai “Tô Huệ chức cẩm hồi văn”[11], rõ ràng trong bản (v.1) hoặc (v.2) đều có sự kế thừa nội dung và ca từ của bài này:

Từ dùng trong “Dạ cổ hoài lang” v.1/ v.2 Câu Có trong câu Nam ai “Tô Huệ…”
Từ 1 2/61
Báu kiếm sắc phán 2 33
luống 3/9/11/14 4/9/40
trông thơ nhàn 3 62
Năm canh mơ màng 4 hoặc câu 12 (v.1) 49
Trông tin chàng 5/11 29/62
Lòng 7 51
dầu/dẫu 7 25
say ong bướm 7 20/25
nghĩa tào khang/tào khương 8 26
Đêm 9/14 17/29
bạn 9 31/55
Ngày 10 28
Sầu/phụ phàng
/phũ phàng
12 (v.1)
12 (v.2)
31/52
51
chàng 13/17 2/8/37/50/53/59/61
chàng có hay 13 15
thiếp 14 7
nằm 14 29
sầu tây/niềm tây 14 55
Bao 15 44
thuở 15 45
Nguyện 17 7
Trở lại 19 38
hiệp 20 68

Háo hức với tác phẩm “hai trong một” này, vào đêm rằm Trung thu 1919 Cao Văn Lầu mang bài ca đến nhà trình thầy Nhạc Khị nhưng không cho biết tên tựa và xin thầy đặt tên.

Lúc đó có mặt nhà sư Nguyệt Chiếu[12] cùng ngồi tham dự, sau khi nghe tác giả đàn và ca, sư góp ý: “…Tuy nhạc và lời ca còn vài điểm bất nhất, nhưng cái chung vẫn diễn tả được tâm tư của nàng Tô Huệ. Vậy cứ theo tích này mà đặt tên cho bài là Dạ cổ hoài lang[13] (tức ‘Nghe tiếng trống đêm nhớ chồng’).

Tất nhiên, đây chưa phải là bài ca chính thức vì chưa hoàn chỉnh về nhạc và lời, mà là đánh dấu cho sự ra đời của tác phẩm.

Như vậy, bài Dạ cổ hoài lang (v.1) rất có thể bao gồm:

  • Nhạc: là nhạc bản Hoài lang, 20 câu, nhịp hai, theo điệu Oán 1.
  • Lời ca: là bản “Vọng cổ” bút tích viết tay của tác giả, trong đó các chữ có gạch xóa chính là lời gốc ban đầu.

2.3. Bài Dạ cổ hoài lang (v.2)

Sau góp ý và đặt tên tựa bài của sư Nguyệt Chiếu, tác giả cũng được một số ca nhạc sĩ cho ý kiến thêm về lời và nhạc.

Theo đó, từ bài Dạ cổ hoài lang (v.1) ông đã sửa lại lời trong một số câu:

Câu 2: Báu kiếm sắc phong lên đàng Báu kiếm sắc phán lên đàng
Câu 5: Trông ngóng trông tin chàng Trông tin chàng
Câu 6: Tấm gan vàng càng lại thêm đau Gan vàng càng lại thêm đau
Câu 12: Sầu, năm canh mơ màng Xin đó chớ phụ phàng
Câu 13: Đó chàng chàng có hay Chàng chàng có hay

Và chỉnh lại nhạc:


Bài này ông lấy tên tựa theo sư Nguyệt Chiếu đặt là Dạ cổ hoài lang – chúng tôi tạm gọi là Dạ cổ hoài lang (v.2).

Do việc chỉnh sửa cũng đơn giản, không mất nhiều thời gian, nên rất có thể Dạ cổ hoài lang (v.2) hoàn thành trong khoảng từ sau đêm rằm Trung thu đến cuối năm 1919 và không có sự kiện công bố nào được diễn ra.

Có thể hình dung giai điệu buổi đầu được người ca bám sát theo nhạc bản đàn cò Hoài lang với lời ca như sau:

Dạ cổ hoài lang (v.2)

Sáng tác: Cao Văn Lầu
Ký âm: Kiều Tấn


*) Cao độ thực tế của Fa, Sol và Do = Fa+, Sol+r và Do+r [dấu + = cao hơn trong khoảng nửa cung bình quân, r = rung]. Câu 15-16 và 19-20 có thể ca lòn xuống một quãng tám.

Và dựa vào lòng bản Hoài lang tức bản (v.1), có thể phục hiện lại lòng bản Dạ cổ hoài lang (v.2) như sau:

Dạ cổ hoài lang (v.2)
(dây Bắc-Oán – lòng bản theo Kiều Tấn)

  1. Là Xang Xê Cống
  2. Líu Công Líu Công Xê Xang
  3. Cống Xê Xang
  4. Xề Xư Xang Hò     
  5. Xề Xế Xang Xư Xề
  6. Xế Xư Xề Xang Xư Xế Xang
  7. Là Xang Xê Cống
  8. Xê Cống Xang Xê Cống Xư Xang
  9. Cống Xê Xang Lịu
  10. Xề Cống Xang Xê Cống Xư Xang
  11. Xư, Xang Cống Xê Xang
  12. Xề Xư Xang Hò     
  13. Xang Hò Xang Xê Cống
  14. Xê Cống Xang Xê Cống Xư Xang
  15. Líu Công Líu Công Xê Xàng
  16. Liu Xáng Xề Oạn Liu Xáng Liu
  17. Xề Cống Xê Xang
  18. Xề Cống Xê Xang Xư Xang
  19. Líu Công Líu Công Xê Xàng
  20. Liu Xáng Xề Oạn Liu Xáng Liu.

Tuy nhiên, bài này vẫn còn tiếp tục chỉnh lý thêm trong thời gian tới mới được xem là căn bản, chính thức của bài Dạ cổ hoài lang mà sau này tác giả gọi là bản Vọng cổ “lịch sử”.

Như vậy, Dạ cổ hoài lang (v.2) là bài ca gồm:

  • Nhạc: bản Hoài lang được chỉnh sửa bước đầu, 20 câu, nhịp hai, theo điệu Oán 1.
  • Lời: lời ca là bản “Vọng cổ” bút tích viết tay của tác giả, trong đó các chữ còn lại sau khi gạch xóa chính là lời gốc.

Theo cách của nhạc cổ truyền, có thể xem (v.2) là bài ca gồm 3 lớp:

  • Lớp I [câu 1 – 6]: “Từ, từ phu tướng............... Gan vàng càng lại thêm đau”.
  • Lớp II [câu 7 – 16]:“Lòng dầu say ong bướm................................ Duyên sắt cầm tình thương với nhau”.
  • Lớp III [câu 17 – 20]: “Nguyện cho chàng............... Cho én nhàn hiệp đôi với đó đây”.

Cũng xin mở ngoặc lưu ý rằng, bài Dạ cổ hoài lang (v.2) ngay từ nguyên gốc đã mặc định 6 câu đầu có kết câu tuần tự theo bậc âm: Cống, Xang, Hò,

Hò, Xề, Hò mà sau này Cải lương dựa theo đó phát triển nhịp và làm cơ sở cho khung “6 câu” Vọng cổ.

2.4. Bài Dạ cổ hoài lang (v.3)

2.4.1. Nhạc và lời ca

Vào năm 1920, với sự cầu thị và nỗ lực cho việc hoàn thiện bài ca, Cao Văn Lầu tiếp tục chỉnh sửa theo góp ý của bạn hữu. Đây là lần chỉnh lý thứ hai và được xem là hoàn thiện về nhạc và lời ca bản Dạ cổ hoài lang.

Thông qua văn bản in trong cuốn Ca nhạc cổ điển điệu Bạc Liêu của Trịnh Thiên Tư, 1962, bản này – tạm gọi là bản Dạ cổ hoài lang (v.3), được mọi người tin tưởng với lời giới thiệu của chính nhạc sĩ Sáu Lầu: “…bản nhạc ‘Vọng cổ’ và lời ca của tôi trong sách này, là nhạc phẩm căn bản nhịp tư…”.

Nhạc: bản Vọng cổ (lịch sử)
(dây Bắc, nhịp tư)

  1.           Xang Xê Cống
  2.      Ú Liu Cổng Liu CổngXàng
  3.      Líu Cổng Xang Là
  4.      Xề Xang Xang Là
  5.      Liu Xáng U Liu Xàng
  6.      Liu Xáng Xàng Xề Liu Ú Liu
  7.      XangCống
  8.      Xê Líu Xừ Cống Líu Xừ Xang
  9.      Cống Xang Xự
  10.      Xê Líu Xừ Cống Xừ Xang
  11. Xừ      Xang Xừ Cống Xang Là
  12. Xề Xang Xể “Xề Là
  13.      Cống Xê Xang     Xang Cống
  14.      Xê Líu Xừ Cống Líu Xừ Xang
  15.      Ú Liu Cộng Liu      Cộng Xê Xàng
  16. Liu Xáng Xàng Xề Phạn Liu “Ú Liu
  17.     Xự Cống Xang Là
  18.      Xê Líu Xự Cống Líu Xự Xang
  19.      Ú Liu Cộng Liu CộngXàng
  20. Liu Xáng Xàng Xề Phạn Liu “Ú Liu

Lời ca: bản Vọng cổ (lịch sử)
(dây Bắc, nhịp tư)

  1.      Từ     từ phu tướng
  2.      Báu kiếm sắc phán lên đàng
  3.      Vào ra luống trông tin nhạn
  4.      Năm canh     màng
  5.      Em luống trông tin chàng
  6.      Ôi gan vàng thêm đau     
  7.      Đường dầu xa ong bướm
  8.      Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
  9.      Còn đêm luống trông tin bạn
  10.      Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
  11. Vọng      phu vọng luống trông tin chàng
  12. Lòng xin chớ phụ phàng     
  13.      Chàngchànghay
  14.      Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
  15.      Biết bao thuở đó      đây xum vầy
  16. Duyên sắt cầm đừng lợt phai     
  17.     nguyện      cho chàng
  18.      Hai chữ an      bình an
  19.      Trở lại      gia đàng
  20. Cho én nhàn hiệp đôi     

*) Ghi chú: Chữ nhạc và lời ca in đậm là thay cho gạch nhịp (chép lại theo nguyên bản in trong sách).

2.4.2. Kết cấu

Trong lần hoàn thiện bài Dạ cổ hoài lang (v.3), so với bản (v.2) trước đó có sự thay đổi đáng lưu ý:

  • Về kết cấu câu: câu 5 từ bậc Xề đổi thành Xàng và câu 9 từ bậc Xư (thực âm là Lịu tức Hò luyến lên Xư) đổi thành Xự.

  • Về tiết nhịp: Đối với lời ca, vẫn giữ nguyên nhịp ngoại ở câu 12, trong khi câu 4 chuyển thành nhịp nội; đồng thời do cắt bớt lời ca, các câu 6, 16 và 20 đều chuyển thành nhịp ngoại. Đối với nhạc, tất cả các câu đều là nhịp nội, không còn câu nhịp ngoại.

  • Về lời ca: trong số 20 câu chỉ có 6 câu: 2, 4, 10, 11, 14 và 19 là hoàn toàn trùng khớp với ca từ của (v.2), còn lại là các câu có thêm/bớt hoặc thay thế lời khác. Hai từ cuối của câu 3: “thơ nhàn” được thay bằng “tin nhạn” tức từ thanh điệu dấu huyền chuyển sang dấu nặng; trong khi ở phần nhạc vẫn giữ nguyên bậc kết với âm dấu huyền là Hò. Trong câu 20, chúng tôi thấy sách vẫn in là “én nhàn” mà không phải “én nhạn”, từ nhàn ở đây thuận với thanh điệu dấu huyền của chữ nhạc Xàng. Chi tiết này cho thấy một là do lỗi nhà in, hai là ngay chính tác giả cũng bất nhất giữa từ nhạn với nhàn, có vẻ như sao cũng được.

2.4.3. Hơi-điệu

Nổi bật trong sự chỉnh lý lần này là tác giả sử dụng đến hai điệu thức xen kẽ nhau trong cùng một bài nhạc và sử dụng trên dây Bắc đàn kìm. Cụ thể, bên cạnh điệu Oán 1 còn có thêm điệu “Oán pha Bắc”: Hò, Xự, Xang+r, Xê, Cống tức Re, Mi, Sol+r, La, Si.

Tuy ghi là “nhịp tư” nhưng thực chất vẫn là nhịp hai, nên chúng tôi chép lại nhịp hai cho dễ đối chiếu.

Nhạc: Dạ cổ hoài lang (v.3)
(dây Bắc, nhịp hai)

1. Là Xang Xê Cống
2. Ú Liu Cổng Liu Cổng Xê Xang
3. Líu Cống Xê Xang Là
4. Xề Xang Xê Xang Là - Oán 1 (câu 1-7)
5. Liu Xáng U Liu Xàng
6. Liu Xáng Xàng Xề Liu Ú Liu
7. Là Xang Xê Cống
8. Xê Líu Xừ Cống Xê Líu Xừ Xang
9. Cống Xê Xang Xự
10. Xê Líu Xừ Cống Xê Xừ Xang - Oán pha Bắc (câu 8-11)
11. Xừ Xang Xừ Cống Xê Xang Là
12. Xề Xang Xề Là Hò “Xề Là - Oán 1 (câu 12-13)
13. Cống Xê Xang Hò Xang Cống
14. Xê Líu Xừ Cống Xê Líu Xừ Xang - Oán pha Bắc (câu 14)
15. Ú Liu Cộng Liu Cộng Xê Xàng - Oán 1 (câu 15-16)
16. Liu Xáng Xàng Xề Phạn Liu “Ú Liu
17. Xự Cống Xê Xang Là - Oán pha Bắc (câu 17-18)
18. Xê Líu Xự Cống Xê Líu Xự Xang
19. Ú Liu Cộng Liu Cộng Xê Xàng - Oán 1 (câu 19-20)
20. Liu Xáng Xàng Xề Phạn Liu “Ú Liu

Đây là cách làm độc đáo và mới lạ đối với một tác phẩm nhạc Tài tử lúc bấy giờ – thường chỉ thuần một điệu thức. Có được điều này là nhờ tác giả khéo léo vận dụng, khai thác từ các câu bản Hành vân trên dây Bắc đàn kìm.

Đối chiếu giữa hai bản, ta thấy có nhiều chữ nhạc/câu nhạc của bản Dạ cổ hoài lang (v.3) chịu ảnh hưởng từ một số câu bản Hành vân[14]:

Nhạc: Hành vân: Dạ cổ hoài lang(v.3):
Xự Cống Xê Xang = câu 1/câu 2/câu 12 câu 11/17
Liu Công Liu Công Xê Xang = câu 17 câu 2/15/19
…Liu Ú Liu = câu 14/câu 18 câu 6/16/20
…Cống Xê Xự Xang = câu 19 câu 8/10/13/18

Có lẽ do điều này mà một số nhà nghiên cứu cho rằng hơi-điệu của bài Dạ cổ hoài lang thuộc “điệu Bắc/hơi Bắc”, hoặc “dây Bắc-hơi Huế”.

#1. Dạ cổ hoài lang (v.3) là hơi Bắc?

Bằng chứng là các chữ nhạc ghi trong bài đều thuộc thang âm Bắc [Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, Phan] và đàn với dây Bắc.

Theo chúng tôi cách hiểu này chưa chuẩn xác, bởi:

  • Chữ nhạc tuy là thang âm Bắc nhưng việc thể hiện ra hơi gì còn phụ thuộc vào cách nhấn rung theo quy ước và các phương thức tô điểm khác.

  • Dây Bắc là loại dây căn bản của đờn kìm lên theo âm Xàng, Hò [Sol, Re], dùng chung cho giọng nam và nữ. Dây Bắc ghi trên bản đàn là một chỉ dấu cho người đàn biết phải so dây theo hệ thống nào [dây Bắc, dây Bắc-Oán, dây Hò nhì, dây Hò tư…] để diễn tấu mới đúng âm điệu của bài bản đó, chứ không đồng nghĩa là hơi Bắc.

Vì thế, chỉ dựa vào chữ nhạc/thang âm qua lòng bản hoặc dây Bắc để đoán định hơi của bài là điều kiện có nhưng chưa đủ. Hơn nữa, Dạ cổ hoài lang (v.2) là điệu Oán và hầu như lời ca cùng một nội dung “chinh phụ vọng chinh phu” với bản Dạ cổ hoài lang (v.3), như thế mà màu sắc âm nhạc của hai bản trái ngược nhau giữa điệu Oán buồn (v.2) và điệu Bắc vui (v.3) là điều vô lý.

#2. Dạ cổ hoài lang (v.3) là dây Bắc-hơi Huế?

Tư liệu âm thanh về nhạc Cải lương được xem là xưa nhất chỉ có thể là đĩa hát Pathé của thầy Năm Tú, có từ năm 1922-1928. Trong số đĩa mà chúng tôi được biết, mang số 44623, tuồng Kim Vân Kiều, hồi thứ tư, do Hai Cúc ca theo điệu Vọng cổ hoài lang. Năm sản xuất tuy không rõ nhưng tên gọi Vọng cổ hoài lang có thể cho ta đoán định đĩa này có trong giai đoạn “Vọng hay là Dạ

cũng được” đến trước khi đổi tên thành Vọng cổ – khoảng 1923-1926. Với thời điểm xuất hiện không xa lắm bản gốc - 1920, kết quả phân tích hơi-điệu của bài ca này có thể làm sáng tỏ hơi-điệu thật sự của bản Dạ cổ hoài lang (v.3).

Sau đây là bài ca do chúng tôi ký âm lại từ đĩa trên[15].

Bài ca có thang âm: Re, Mir, Fa+, Sol+r, La, Si, Do+r, Re, Mi... tức Hò, Xựr, Xư, Xang+r, Xê, Cống, Phan+r, Liu, Ú… Căn cứ trên tiến hành giai điệu của các câu, tạm xếp thang âm thành hai dạng điệu chính:

  • Điệu Oán: Re, Fa+, Sol+r, La, Si [Hò, Xư, Xang+r, Xê, Cống] với 2 âm bổ trợ = e’ [Ú] và Do+r [Oanr].
  • Điệu “lạ” (tạm gọi là vậy): Re, Mir, Sol+r, La, Si [Hò, Xựr, Xang+r, Xê, Cống].

So sánh điệu “lạ” với các điệu sau:

Điệu Nam hơi Dựng (Huế)[16]: Re, Mir, Sol+r, La, Sir
Điệu Bắc: Re, Mir, Sol, La, Sir
Điệu Oán: Re, Fa+, Sol+r, La, Si
Điệu “lạ”: Re, Mir Sol+r, La, Si

Điệu Nam hơi Dựng (Huế) rất giống với điệu “lạ”, duy chỉ khác quy ước rung Sir/Si.

Điệu Bắc ngoài khác về quy ước rung Sir/Si, còn có một khác biệt rất cơ bản ở bậc III là Sol/Sol+r, nên rất khó có thể xem là một điệu họ hàng.

Đặc biệt điệu Oán rất gần gũi và có thể trở thành điệu “lạ” khi “pha” thêm vào bậc Mir của điệu Bắc, đồng thời hoán đổi chức năng chính-phụ giữa bậc Mir và Fa+ tức Mir là bậc chính, còn Fa+ là âm bổ trợ (nếu có sử dụng).

Trên cơ sở xem xét đó, chúng tôi tạm đặt tên điệu “lạ” là điệu “Oán pha Bắc” để tiện việc đối chiếu về sau.

Quan sát bản nhạc, ta thấy:

  • Từ câu 1-7, nửa sau câu 11-12, câu 15-16 và 19-20: thang âm thuộc điệu Oán, có dùng âm bổ trợ Mí [trong câu 5] và Do+r [cả hai âm bổ trợ trong câu 16 và 20].

  • Từ câu 8 đến nửa đầu câu 11, câu 13-14 và 17-18: thang âm thuộc điệu Oán pha Bắc.

(Xin mở ngoặc nói thêm: Bậc phụ Ú và Oanr thường xuất hiện ở phách yếu/phần yếu của phách, cũng có khi rơi vào phách mạnh/thì mạnh nhưng chỉ với ý nghĩa thêu/lướt. Ở điệu Bắc khi bậc Úr đảo xuống quãng tám đọc là Xựr, nhưng trong điệu Nam/Oán bậc Ú đảo xuống vẫn đọc là Ú/U. Ví dụ như câu 5 [lược bớt – Ré Sól+r Ré La] đảo xuống quãng tám, sẽ xướng và ghi là: “Liu Xáng+r U Liu Xề” chứ không phải “Hò Xang+r Xự Hò Xề” hay “Liu Xáng+r Xự Liu Xề”… Trường hợp như vậy, Xự = Mi = e [không rung] vẫn được xem là âm bổ trợ của điệu Oán, khác với trong điệu Oán pha Bắc – Mir = er [rung] là bậc âm chính).

Hình thức tiếp nối điệu này sang điệu khác như trên, là một trong những thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo sự đột biến, đa dạng thêm sắc thái tình cảm trên chiều ngang của giai điệu, thường thấy trong dân ca Nam Bộ và được gọi là kết hợp điệu thức theo lối “xen kẽ”.

Như vậy, mấu chốt vấn đề ở đây là sự kết hợp điệu thức và bậc Xựr trong điệu Oán pha Bắc. Chính vì có bậc Xựr nên nhiều người thấy lạ và đã dùng các thuật ngữ khác nhau để diễn đạt cho thang điệu Hò, Xựr, Xang+r, Xê, Cống là “dây Bắc-hơi Huế”/ “dây Bắc pha hơi Huế”/ “dây Bắc pha hơi miền Trung”. Hoặc ca ngợi là “nét mới”/ “điệu thức lạ” như trong lời thuật lại của hai người con tác giả: Cao Kiến Thiết[17] “… sau một thời gian phổ biến bản nhạc và lời ca, ba tôi có đờn và ca nhiều lần cho anh em nhạc sĩ, ca sĩ, nhà sư, nhà thơ v.v… nghe để cho ý kiến. Về bản nhạc, anh em đều khen hay vì có nhiều nét mới”; và Cao Văn Bỉnh[18] … sau những đêm dài trăn trở những lời thơ, nốt nhạc đã hình thành dần trong tâm thức của ông một dòng nhạc có điệu thức lạ, nó không lẫn vào bất cứ một trước tác nào…”.

Có thể nói, thành công của bài Dạ cổ hoài lang (v.3) là nhờ tác giả khéo léo kết hợp hai điệu Oán Oán pha Bắc xen kẽ lẫn nhau, đồng thời vận dụng một số nét nhạc Hành vân đưa vào tác phẩm. Điều đó đã tạo nên một Dạ cổ hoài lang (v.3) có chất nhạc vừa thiết-tha-oán-hờn đặc trưng của điệu Oán trong dân ca Nam Bộ, vừa ánh lên nét lạc-quan-tươi-sáng cố hữu của thang điệu Bắc, lại vừa lẩn khuất cái buồn-trầm-mặc đượm chất Huế của điệu Nam hơi Dựng – mà có nhà nghiên cứu nói là “có chút gì đó của hơi Xuân (Hành vân) lại có chút gì đó của hơi Ai (Xuân nữ), rồi từng chập lại nghe hơi Dựng (Tứ đại oán)”[19].

2.5. Đổi tên Dạ cổ hoài lang thành Vọng cổ hoài lang

Với sự cầu thị và nỗ lực cho việc hoàn thiện bài ca, Cao Văn Lầu tiếp tục nhờ một vài đồ nho, thầy tuồng góp ý thêm. Trong số này, đặc biệt là sự đóng góp không nhỏ của Trần Xuân Thơ trong việc nhuận sắc lời ca và đổi tên bài.

Theo Cao Kiến Thiết: “Thầy Thống tức Trần Xuân Thơ người miền Bắc, rất giỏi chữ Nho, đề nghị thay chữ Dạ cổ (tiếng trống đêm) thành Vọng cổ (tức là tiếng trống vọng lại). Lý do là ba tôi lấy điển tích nàng “Tô Huệ chức cẩm hồi văn” làm nội dung của bài ca và bản nhạc, mà lòng Tô Huệ khi chức cẩm hồi văn thì nghe tiếng trống đánh từ xa vọng lại, chớ không phải là tiếng trống đánh lúc ban đêm, cho nên để chữ Dạ cổ thì nó tối nghĩa, còn chữ Vọng cổ thì càng làm rõ điển tích mà ba tôi đã chọn. Trong cuộc họp đó, ba tôi đồng ý đổi chữ Dạ cổ hoài lang thành Vọng cổ hoài lang, nghĩa là theo tiếng trống vọng lại mà nhớ chồng. Nhưng lúc đó, bản Dạ cổ hoài lang đã được phổ biến và đờn ca rộng rãi ở nhiều nơi, nên phải mất một thời gian khá lâu mới thống nhất được tên gọi Vọng cổ hoài lang”[20].

Linh mục Vũ Văn Thiện cũng có thuật lại lời Sáu Lầu: “Để tôi kể tiếp hầu cha, tôi đem bản nhạc của tôi về, dấu cái đặt đi, tôi mới trao cho một vài đồ nho đọc, xin thầy đặt cho nó một cái tên. Thầy đọc xong, tôi mới hát và đờn cho thầy nghe, thầy lấy làm ưng ý lắm, liền đặt cho nó cái tên là “Vọng cổ hoài lang”[21].

Đối chiếu với lời kể của Cao Kiến Thiết, người mà Sáu Lầu gọi là “đồ nho”/ “thầy”, đó chính là thầy Thống tức Trần Xuân Thơ.

Trong Bài ca Lục Vân Tiên của Trần Tựu Thành, năm 1923, có bài Vọng cổ hoài lang:

“Mười năm cửa Khổng
Đến nay rõ chí tang bồng…”

Bài này có ghi chú bên dưới “Vọng hay là Dạ cũng được”[22].

Qua cứ liệu trên cho thấy, tên gọi Vọng cổ hoài lang đã sớm xuất hiện từ 1923 và ở vào thời điểm này nhạc giới cũng chưa thống nhất giữa hai tên gọi Vọng hay Dạ của bài Dạ cổ hoài lang.

2.6. Đổi tên Vọng cổ hoài lang thành Vọng cổ

Trong đoạn băng phỏng vấn Cao Văn Lầu (1963) đã dẫn, khi được hỏi: “Tại sao bản Hoài lang đổi thành Vọng cổ?”, ông có trả lời: “Bởi vì trước khi nó là Hoài lang, sau nhờ Trần Xuân Thơ mới sửa tên là Vọng cổ.

Trong cuốn Ca nhạc cổ điển điệu Bạc Liêu, 1962 của Trịnh Thiên Tư, nơi trang 177-179 in nhạc và lời ca ghi là “Bản Vọng cổ (lịch sử)”; và Cao Văn Lầu viết trong lời giới thiệu nơi trang đầu: “…bản nhạc ‘Vọng cổ’ và lời ca của tôi trong sách này…”.

Có ý kiến giải thích[23] là, trong một buổi gặp gỡ, chia sẻ về thành công của bản Vọng cổ hoài lang – lúc này gia đình Sáu Lầu rất đề huề, vợ ông đã sinh ra một vọt con[24] – tác giả đã bồi hồi nhắc lại chuyện xưa “cưới vợ ba năm không có con” và Trần Xuân Thơ nhân đó đề nghị đổi tên bài thành “Vọng cổ” [vọng = trông nhớ; cổ = xưa, tức ‘Nhớ xưa’] với ý nhớ lại chuyện dĩ vãng của ông. Sáu Lầu đã vui vẻ chấp thuận và tên Vọng cổ bắt đầu được phổ biến từ đó.

Trong thư gửi Chín Tâm ngày 22-07-1962, Trịnh Thiên Tư có viết: “Dịp ấy ông Trần Ngọc Thơ tục gọi là thầy Hai Thống (chết) một bậc thâm Nho đang làm soạn giả cho gánh hát của cậu Hai Xú (Bạc Liêu) đề nghị chữa tên bản nhạc này lại là VỌNG CỔ “nhớ người xưa” mà uy tín bậc túc Nho này được tác giả bản nhạc thỏa thuận”[25].

Theo Trần Văn Khải[26]: “Thí dụ trong tuồng Tham phú phụ bần (TVK) trình diễn năm 1926 tại Biên Hòa, lúc cô Ai Châu than vãn cùng Huỳnh Kỳ Thoại là vị hôn phu bị cha nàng bội ước và muốn gả nàng cho chỗ khác giàu hơn, có ca Vọng cổ nhịp đôi như sau:

Tham phú phụ bần (Vọng cổ)

  1. đâu nên xui khiến
  2. Cha nỡ rẽ thúy chia uyên…”.

Và theo Sỹ Tiến[27]: “Chúng ta thử xem lại một vở xưa là Trần Nhựt Chánh do gánh Văn Hí Ban diễn… màn nhì có các bản Hành vân, Vọng cổ hoài lang…; màn sáu có Vọng cổ, Long hổ hội…”; “Cũng nên biết, Vọng cổ vào thời kỳ kể trên hãy còn nhịp tư… cô Ba Hui (chị cô Năm Kim Thoa) đóng vai Kim Dung là một trong ba vợ của Trần Nhựt Chánh, ca một lớp Vọng cổ:

  1. Tâm thần ai xé rứt,
  2. Đôi mắt như kim châm vào…”.

Theo Trần Phước Thuận[28], qua lời kể lại của Trần Tấn Hưng, từ “Vọng cổ” được sử dụng từ tháng 08 năm Ất hợi (1935) do lời đề nghị của Trịnh Thiên Tư. Dạ cổ hoài lang Vọng cổ là hai bản khác nhau, nhưng Vọng cổ do Dạ cổ hoài lang mà có, vì vậy Vọng cổ phải mang ý nghĩa “trông về truyền thống xưa”. (Tuy nhiên, theo cứ liệu Trần Văn Khải, cho thấy từ Vọng cổ đã xuất hiện từ năm 1926 và ngay ý kiến cho rằng Vọng cổ là do Trịnh Thiên Tư đề nghị cũng mâu thuẫn với chính những lời Trịnh Thiên Tư khẳng định trong thư gửi Chín Tâm).

Theo một số nhà nghiên cứu, từ thời điểm bản Dạ cổ hoài lang phát triển lên nhịp tám (1935) tên gọi Vọng cổ mới được thống nhất dùng để chỉ định cho nhịp tư và các loại nhịp phát triển về sau, riêng nhịp hai vẫn giữ với tên ban đầu là Dạ cổ hoài lang.

Với các dẫn chứng trên chứng tỏ tên gọi Vọng cổ đã xuất hiện từ rất sớm (1926) và trong thời gian đó được dùng lẫn lộn, không có sự phân biệt giữa Dạ cổ hoài lang/Vọng cổ hoài lang/Vọng cổ cho đến năm 1935 mới có sự thống nhất khi nào gọi là Dạ cổ hoài lang, khi nào gọi là Vọng cổ.

Như vậy, có thể tóm tắt các cột mốc thời điểm sáng tác của bài Dạ cổ hoài lang như sau:

  • Năm 1917-1918 thai nghén và phác thảo bản đàn 22 câu, nhịp hai.
  • Năm 1919 hoàn thành bản Hoài lang.
  • Đêm Trung thu 1919 khai sinh bài Dạ cổ hoài lang (v.1), 20 câu, nhịp hai.
  • Khoảng cuối 1919 chỉnh sửa lần đầu và phổ biến diện hẹp bài Dạ cổ hoài lang (v.2).
  • Năm 1920 hoàn thiện và phổ biến chính thức bài Dạ cổ hoài lang (v.3).
  • Từ 1923 đổi tên bài thành Vọng cổ hoài lang.
  • Khoảng 1926 đổi tên bài thành Vọng cổ.

Lâu nay khi chưa được làm sáng tỏ các tình tiết, nhiều nhà nghiên cứu có thể ở nhiều góc độ khác nhau như căn cứ trường hợp lúc mới phác thảo, vào thời điểm công bố, lúc hoàn chỉnh tác phẩm… để xác định năm ra đời của bài Dạ cổ hoài lang và chính vì vậy mới có sự bất nhất trong vấn đề này.

3. Những biến đổi của bài Dạ cổ hoài lang

Trong quá trình phổ biến tác phẩm, ngoài chủ định của tác giả trong sự thay đổi tên bài hay chỉnh lý thành hai phiên bản (v.2) và (v.3), Dạ cổ hoài lang còn có các phiên bản do “sáng tác dân gian” làm biến đổi một ít về lời ca, số câu, câu nhạc và hơi-điệu của bài.

3.1. Biến đổi lời ca

Cho đến nay, Dạ cổ hoài lang có tới hàng chục dị bản đang lưu hành. Trong số này, không ít dị bản được người ca tùy tiện thêm thắt, nhưng đa phần đều dựa theo các nguồn phổ biến qua danh ca tên tuổi, băng đĩa hoặc bài viết của các nhà nghiên cứu có uy tín, điển hình như: Ba Vàm Lẻo, Ái Liên, Nguyễn Tử Quang, Trần Văn Khải, Phạm Duy[29] v.v…

Có thể dẫn ra ba nguồn dị bản được nhiều người biết đến và ca theo, như sau:

BA VÀM LẺO

  1. Từ phu tướng
  2. Báu kiếm sắc phong[30] lên đàng
  3. Vào ra luống trông tin chàng
  4. Năm canh mơ màng
  5. Đau xót xa gan vàng
  6. Đôi hàng lụy rơi
  7. Lòng dầu xa ong bướm
  8. Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
  9. Đêm luống trông tin bạn
  10. Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
  11. Vọng phu vọng luống trông tin chàng
  12. Sao nỡ phụ phàng
  13. Chàng có hay
  14. Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
  15. Bao thuở đó đây sum vầy
  16. Duyên sắt cầm từ đây
  17. Nguyện cho chàng
  18. Hai chữ bình an
  19. Trở lại gia đàng
  20. Cho én nhạn hiệp đôi.

ÁI LIÊN

Từ là từ phu tướng
Báu kiếm sắc phán lên đàng
Vào ra luống trông tin chàng
Đêm năm canh mơ màng

Em luống trông tin chàng
Gan vàng càng quặn đau
Chàng dẫu xa ong bướm

Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
Đêm luống trông tin bạn
Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
Vọng phu vọng luống trông tin chàng
Chàng xin chớ phụ lòng
Chàng hỡi chàng có hay
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
Biết bao thuở đó đây sum vầy
Duyên sắt cầm tình thương
Thiếp khẩn nguyện cho chàng
Đặng chữ bình an

Sớm trở lại gia đàng
Cho én nhàn hiệp đôi mới vui.

NGUYỄN TỬ QUANG

Từ phu tướng
Báu kiếm sắc phong lên đàng
Vào ra luống trông tin chàng
Thêm đau gan vàng

Trông tin chàng
Gan vàng thêm đau

Chàng dầu say ong bướm
Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
Đêm ngóng trông tin bạn
Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
Vọng phu vọng luống trông tin chàng
Năm canh mơ màng
Chàng hỡi chàng có hay
Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
Bao thuở đó đây sum vầy
Duyên sắt cầm tình thương
Nguyện cho chàng

Đặng chữ bình an
Trở lại gia đàng
Cho én nhạn hiệp đôi.

*) Chữ in đậm là câu có lời ca biến đổi ít nhiều so với bài Dạ cổ hoài lang (v.3).

Hiện nay, ngoài bài Dạ cổ hoài lang 20 câu còn có bài 22 câu, thậm chí là 24 câu được lưu truyền trong nhạc giới.

#1. Bài Dạ cổ hoài lang 22 câu do Chín Tâm sưu tầm, lời ca như sau:

Dạ cổ hoài lang (22 câu)

  1. Từ là từ phu tướng
  2. Bảo kiếm sắc phán lên đàng
  3. Vào ra luống trông tin nhàn
  4. Năm canh mơ màng     
  5. Em luống trông tin chàng
  6. Ôi, gan vàng thêm đau (ý y)
  7. Đường dầu xa ong bướm
  8. Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
  9. Hằng đêm luống trông tin bạn
  10. Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
  11. Vọng phu vọng luống trông tin chàng
  12. Lòng xin chớ phụ phàng     
  13. Chàng là chàng có hay
  14. Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
  15. Biết bao thuở đó đây sum vầy
  16. Duyên sắt cầm đừng lợt phai (ý y)
  17. Lời nguyện với trời
  18. Xin chứng giám lòng tôi
  19. Khi góc biển chân trời
  20. Em chúc chàng vạn an (ý y)
  21. Mau trở lại gia đàng
  22. Cho én nhạn hiệp đôi (ý y).

Bài này đã được thu và phát sóng trên Đài Tiếng nói nhân dân TP HCM, 1992, người ca Tấn Đạt, Chín Tâm kìm, Vũy Chỗ tranh, Tấn Nhì cò.

Về lời ca, 16 câu đầu và hai câu cuối tương tự như của bài Dạ cổ hoài lang (v.3), chỉ riêng bốn câu 17-20 là khác hẳn.

Về nhạc, 20 câu đầu giống như các phiên bản điệu Oán khác. Riêng câu 21 và 22 là sự lập lại câu 5 và 6 [ở quãng tám trên] của bản (v.2), hay nói cách khác, giống như câu 19 và 20 nhưng kết câu 21 là Xề chứ không phải Xàng.

Trích sáu câu cuối[31]:

Dạ cổ hoài lang
(22 câu)

Người ca: Tấn Đạt
Ký âm: Kiều Tấn

*) Cao độ thực tế của Fa, Sol và Do = Fa+, Sol+r và Do+r [dấu + = cao hơn trong khoảng nửa cung bình quân, r = rung].

Theo chúng tôi, có thể đây là bài có phần nhạc theo cấu trúc 22 câu lúc tác giả khởi thảo; còn lời ca là sự lắp ghép giữa lời cũ của bốn câu 17-20 với lời mới của bản (v.3). Dẫu sao, bài này cũng nên xem như một minh chứng có thật về bản phác thảo 22 câu của tác giả.

#2. Theo Huỳnh Khải, bài Dạ cổ hoài lang 24 câu do Võ Văn Khuê[32] biên soạn dùng trong giáo trình môn Ca cổ, Nhạc viện TP HCM, lời ca như sau:

Dạ cổ hoài lang (24 câu)

  1. Từ là từ phu tướng
  2. Bảo kiếm sắc phán lên đàng
  3. Vào ra luống trông tin nhạn
  4. Năm canh mơ màng     
  5. Em luống trông tin chàng
  6. Ôi, gan vàng thêm đau (ý y)
  7. Đường dầu xa ong bướm
  8. Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang
  9. Còn đêm luống trông tin bạn
  10. Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
  11. Vọng phu vọng luống trông tin chàng
  12. Lòng xin chớ phụ phàng     
  13. Chàng là chàng có hay
  14. Đêm thiếp nằm luống những sầu tây
  15. Biết bao thuở đó đây sum vầy
  16. Duyên sắt cầm đừng lợt phai (ý y)
  17. nguyện cho chàng
  18. Hai chữ an bình an
  19. Trở lại gia đàng
  20. Cho én nhạn hiệp đôi
  21. Từ chàng ra ải Bắc
  22. Thiếp mỏi mòn đêm nhớ ngày mong
  23. Khách quan san viễn thiệp
  24. Cậy ai     nhắn trao lời vàng.

Bài này do Hà Thu thể hiện, Ba Tu kìm, Huỳnh Khải cò[33]. Hai mươi câu đầu là lời ca của bản (v.3), nhạc theo điệu Oán 3. Bốn câu cuối là lời ca mới, nhạc lập lại nguyên xi như câu 1-4, trong khi lời lại ca theo điệu Oán pha Bắc và đến gần cuối câu 24 mới trở về điệu gốc để kết bài. Cách ca này hoàn toàn do người ca sáng tạo, theo lời Hà Thu.

Trích bốn câu cuối:

Dạ cổ hoài lang
(24 câu)

Người ca: Hà Thu
Ký âm: Kiều Tấn

*) Cao độ thực tế của Fa, Sol và Do = Fa+, Sol+r và Do+r [dấu + = cao hơn trong khoảng nửa cung bình quân, r = rung].

Bốn câu cuối với lời văn trau chuốt, hơi hướng Nho học, chứng tỏ có bàn tay kẻ sĩ; đồng thời giữa nhạc và giai điệu lời ca không bị ràng buộc bởi hơi- điệu, cho thấy đây rất có thể là bốn câu được thêm vào, mang tính chắp vá, không phải là tổng thể của một bài ca nguyên bản 24 câu.

3.3. Biến đổi câu nhạc

Trong biểu diễn, tùy theo cảm hứng của nhạc sĩ đánh đàn và tính năng của nhạc khí mà đường nét giai điệu trong các câu Dạ cổ hoài lang được thể hiện biến hóa khác nhau, mặc dù vậy về căn cơ lòng bản vẫn phải tuân thủ chữ đàn ở hai chính nhịp [của nhịp hai]. Tuy nhiên, đối với bản Dạ cổ hoài lang có những biến đổi làm khác đi căn bản của lòng bản [bao gồm nhịp nội/ngoại, kết câu/nét nhạc] trong một số câu do nhạc giới tạo ra.

Có thể thấy điều này trong một số câu sau:

Câu Dạ cổ hoài lang (v.2) Dạ cổ hoài lang (v.3) Dạ cổ hoài lang chuẩn/ khác
4 Xề Xư Xang Hò      Xề Xang Xê Xang Là Xề Xang Xang Là : chuẩn
5 Xề Xế Xang Xư Xề Liu Xáng U Liu Xàng Liu Xáng U Liu Xề (*)
Liu Xáng U Liu Oan
6 Xế Xư Xề Xang Xư Xế Xang Liu Xáng Xàng Xề Liu Ú Liu Liu Ú Xề Tồn Liu Ú Liu
9 Cống Xê Xang Lịu Cống Xê Xang Xự
12 Xề Xư Xang Hò      Xề Xang Xề Là Hò “Xề Là
15/19 Liu Cổng Liu Công Xê Xàng Ú Liu Cổng Liu Công Xê Xàng Công Xê Xang (**)
Công Xê Xang Xư Xề
16 Liu Xáng Xề Oạn Liu Xáng Liu Liu Xáng Xàng Xề Phạn Liu “Ú Liu
20 Liu Xáng Xề Oạn Liu Xáng Liu Liu Xáng Xàng Xề Phạn Liu “Ú Liu Lìu Xang Xề Xề Phạn Lìu     

(i) Về câu 5 mang bậc kết Xề:

Trong bài phỏng vấn của Trịnh Thiên Tư đăng trên báo Tiếng dội ngày 22-7-1962, Cao Văn Lầu cho rằng: “Câu 5 cũng bị đổi từ chữ XÀNG ra XỀ như hiện nay, nhưng ông không phản đối vì dứt XỀ không đi ra ngoài giọng XÀNG của dây Bắc nhịp đôi”[34].

Có lẽ theo ý của tác giả, bản Dạ cổ hoài lang (v.2) khi chỉnh lý thành Dạ cổ hoài lang (v.3) đã được ông thay đổi câu 5 từ kết Xề thành kết Xàng[35]. Tuy nhiên nhiều người, nhất là trong giới Cải lương (văn bản của Lê Mai 1924 gọi là Bài đờn Cải lương), vẫn trung thành với bản cũ tức Dạ cổ hoài lang (v.2) theo kết Xề nên ông cũng “không phản đối”, vì như thế nào thì cũng là “con đẻ” của tác giả. Đó là lý do giải thích vì sao câu 5 luôn luôn được kết với bậc Xề khi Dạ cổ hoài lang phát triển lên các loại nhịp khác trong sân khấu Cải lương.

(ii) Về câu 15 và câu 19 mang bậc kết Hò:

Trong thư của Trịnh Thiên Tư gửi Chín Tâm như đã dẫn[36], có giải thích rằng: “Ông Sáu Lầu soạn cho tôi thấy bản nhạc vọng cổ mở lơi nhịp 8 đã xuống HÒ chót câu 15 và 19… ông thú thật chỉ nghe ca nhạc sĩ Hai Húa (Bạc Liêu) (chết) hòa ca điệu này với nhịp 8 và ca kịch sĩ Năm Nghĩa (chết) với nhịp “16” gặt hái từ miền Đông trở về thôi. Sự thật ông Sáu Lầu không biết người “phản bổn”.

Và theo trả lời của Sáu Lầu trong mục Kịch trường báo Tiếng dội nêu trên[37]: “Tôi đã cố ý chuyển câu 15 và 19 lên chữ Xang để tránh bớt du dương và ‘điệp hạ bình thinh’, thế nhưng nó đã bị sửa ra chữ Hò (Lìu) như câu khác làm cho bản vọng cổ càng bị lên án ‘vong quốc’”.

Rõ ràng tác giả đã có chủ đích chọn bậc kết Xàng cho câu 15 và 19, nên việc sửa thành kết Hò là không đúng theo ý của ông.

3.4. Biến đổi hơi-điệu

Hơi-điệu của bài Dạ cổ hoài lang, ngoài hai điệu cơ bản là Oán 1 [bản v.2] và Oán + Oán pha Bắc [bản v.3], tùy giai đoạn phát triển, về sau còn có sự biến đổi sang điệu Oán 3, thậm chí biến đổi hơi-điệu theo kiểu ngẫu hứng.

#1. Có thể dẫn chứng bài Dạ cổ hoài lang ca theo điệu Oán 1, do Út Trà Ôn thể hiện trong một đoạn thu thanh khoảng cuối thập niên 1940[38]:

center>

Bài này có lời ca giống như nguồn của cô Ba Vàm Lẻo (chỉ khác mỗi chữ bạn/nhạn ở cuối câu 9 – có lẽ người ca hát nhầm) và nhạc cũng khớp với bản v.2 (chỉ khác cách kết bài ở câu 20 là nhịp ngoại, thay vì đờn ca nối thành nhịp nội – có thể đây là cách riêng tạo sự khác biệt của người ca). Sự xuất hiện bậc Xự [không rung] trong câu 16 và 20, như chúng tôi đã phân tích, thực chất đó là bậc Ú với vai trò âm bổ trợ, nên thang âm vẫn nằm trong điệu Oán 1.

#2. Dạ cổ hoài lang điệu Oán + Oán pha Bắc [bản v.3] được ca theo bản chuẩn khá phổ biến gần đây (tham khảo hơi-điệu qua bản ca cô Hai Cúc trong tuồng Kim Vân Kiều nêu trên).

#3. Dạ cổ hoài lang điệu Oán 3, do cô Bạch Huệ trình bày trực tiếp trong một buổi hội thảo tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009[39]:


Hội thảo “90 năm – Bản Dạ cổ hoài lang” 29/7/2009 (ảnh chụp qua mạng).

Bài ca có điệu chủ đạo là Oán 3: Hò, Xư, Xang+r, Xê, Cống [Re, Fa+, Sol+r, La, Si] với 2 âm bổ trợ Ú [Mi] và Oanr [Do+r]. Giữa hai điệu Oán 1 và Oán 3 gần như nhau chỉ khác ở bậc Cống: Cống Oán 1 = Si, còn Cống Oán 3 có cao độ thấp hơn Si nhưng cao hơn Sib trong khoảng nửa cung bình quân – chúng tôi dùng ký hiệu dấu () để chỉ độ chênh này, ví dụ Cống [Si].

Ngoài ra, chỉ duy nhất xuất hiện một bậc Xựr [er] ở đầu câu 17 cho thấy câu này được chuyển sang điệu Oán pha Bắc và sau đó lại trở về ngay điệu Oán 3 cho đến hết bài.

#4. Về sau, những tài tử ca đã “pha chế” hơi-điệu Dạ cổ hoài lang thành một dạng tùy hứng bằng cách thi thoảng đưa âm Xựr vào trong câu thuộc lớp II và III để tạo sự đột biến, nghĩa là không cần đúng theo nguyên dạng của bản (v.3) hoặc thuần là điệu Oán 1 hay Oán 3 nữa.

Ví dụ như bản ca do cô Tư Ngọc Ánh trình bày[40] sau đây:

Dạ cổ hoài lang

Sáng tác: Cao Văn Lầu
Người ca: Ngọc Ánh
Ký âm: Kiều Tấn


*) Cao độ thực tế của Fa, Sol và Do = Fa+, Sol+r và Do+r [dấu + = cao hơn trong khoảng nửa cung bình quân, r = rung]; nốt Mi = Mir nhưng Mí (er) không rung.

Với cách xử lý như trên, bài tuy nguyên dạng là điệu Oán 1 nhưng đột nhiên trong câu 11, 14 và 18 xuất hiện bậc Xựr – đặc trưng của điệu Oán pha Bắc (Trường hợp như bản ca của Bạch Huệ, cũng có sự ngẫu hứng bất ngờ khi chỉ xen bậc Xựr ở đầu câu 17 trong toàn bài thuộc điệu Oán 3).

Trên thực tế hiện nay, nhiều người đã thể hiện Dạ cổ hoài lang khá tùy tiện, không biết chuẩn mực nào để mà theo. Đó là chưa nói đến việc phối âm, phối khí cùng biểu diễn thanh nhạc theo hệ âm bình quân của các ca nhạc sĩ gần đây – xem như một ca khúc tân nhạc. Tất cả những điều đó cộng với sự biến đổi đa dạng trong các phiên bản khiến chúng ta khó nhận ra đâu là cách ca đúng nhạc và đúng điệu gốc của bài Dạ cổ hoài lang.

4. Chuẩn hóa bài Dạ cổ hoài lang và đề xuất

4.1. Nhạc và lời ca chuẩn theo công bố năm 2010

Trước tình trạng lưu hành nhiều phiên bản Dạ cổ hoài lang, đã đến lúc cần thống nhất một bản chuẩn để mọi người có cơ sở quy chiếu. Vì vậy, sau nhiều cuộc tọa đàm được tổ chức, UBND tỉnh Bạc Liêu đã căn cứ kết quả để ra

Quyết định số 2257/QĐ-UBND ngày 17-9-2010 công bố bản nhạc và lời ca chuẩn của bài Dạ cổ hoài lang:


Ảnh chụp tại Phòng trưng bày Khu di tích Cao Văn Lầu, 2018.

Có thể thấy, nguồn căn cứ chủ yếu dựa vào bản nhạc và lời ca in trong cuốn Ca nhạc cổ điển điệu Bạc Liêu của Trịnh Thiên Tư tức bản Dạ cổ hoài lang (v.3).

  • Giữ nguyên chữ nhạc nhưng cách ghi chuyển từ nhịp tư sang nhịp hai;
  • Chỉnh lại tiết tấu câu 4: thay vì Xề Xang Xê Xang Là thì được chuyển thành Xề Xang Xang Là ;
  • Bổ sung dấu nháy trong hai chữ “Ú Liu” cuối câu 6 (các câu 12, 16 và 20 cũng có dấu nháy tương tự – thể hiện đó là chữ đàn nối cho trọn nhịp khi lời ca đã hết).

Về phần lời:

  • Giữ nguyên hầu như toàn bộ lời nhưng không phân nhịp trong các câu;
  • Bỏ bớt chữ “Còn” ở đầu câu 9 và chữ “Biết” ở đầu câu 15;
  • Thống nhất dùng từ “nhạn” trong câu 3 [tin nhạn] và câu 20 [én nhạn].

4.2. Một số nhận xét về bài Dạ cổ hoài lang chuẩn

Việc công bố bản Dạ cổ hoài lang chuẩn là điều cần thiết. Văn bản này đã được nhạc sĩ Cao Văn Lầu xác nhận “căn bản” nên là điều đúng đắn và tuy có chỉnh sửa đôi chỗ nhưng nhìn chung cũng hợp lý.

Tuy nhiên, có một vài điểm mà chúng tôi cho rằng nên xem xét lại, xin được dẫn:

#1. Việc dùng từ nhạn trong câu 3 và 20 thay thế cho từ nhàn (nên nhớ trong bản bút tích 1974 tác giả đều viết là “nhàn” chứ không phải “nhạn”) đã dẫn đến những hệ lụy như sau:

  • Nhạn ca với âm Hò luyến lên Xư tức âm Lịu (điệu Oán), chữ đàn cũng phải sửa lại là Lịu hoặc Xư, đồng nghĩa nhạc câu 3 = câu 9 [của bản v.2].
  • Nhạn ca với âm Xự (rung, điệu Bắc), chữ đàn cũng phải sửa lại là Xự, đồng nghĩa nhạc câu 3 = câu 9 [của bản v.3].
  • Nhạn ca với âm Lịu/Xư nhưng đàn vẫn giữ nguyên chữ Hò (như trong bản chuẩn công bố).
  • Nhạn ca với âm Hò cho đúng chữ kết câu của nhạc đàn, có nghĩa ghi là nhạn nhưng ca là nhàn.

Cả bốn trường hợp này thật khó chấp nhận khi giải quyết được thanh điệu lời ca lại vướng mắc chữ nhạc kết câu, ngược lại đàn đúng chữ nhạc kết câu lại vướng mắc thanh điệu của lời.

Cách khắc phục duy nhất là trở lại dùng từ nhàn, nhưng như vậy liệu có sai về mặt ngữ nghĩa?

#2. Thông thường, nhiều người thời nay hiểu rằng nhàn có nghĩa là rảnh rỗi, dùng vào câu “Vào ra luống trông tin nhàn hay “Cho én nhàn hiệp đôi” không hợp nghĩa của câu; trong khi thay bằng nhạn là tin nhạn đưa thư, con chim nhạn sẽ xác đáng hơn. Tuy nhiên, từ nhàn là tiếng miền Nam xưa hay dùng với một nghĩa khác.

Theo Nguyễn Tuấn Khanh, trong tự điển Dictionarium Anamitico- Latinum của Taberd, 1838, từ “nhàn” giải thích theo tiếng La Tinh “avis deferens epistolam” có nghĩa là “một loại chim đưa thư”. Tục ngữ ta có câu “biệt tăm nhàn cá” để nói lên sự vắng tin tức, biệt tăm dạng[41].

Chúng tôi cũng thấy từ nhàn với nghĩa “chim đưa thư” sử dụng vào thời đó là rất bình thường.

Ví dụ như trong bài Nam ai “Tô Huệ chức cẩm hồi văn”: câu 58 (tức câu 62 bản Nam ai riêng lẻ) “Trông thơ nhàn tợ cá trông sao”;[42]

Hoặc ngay như quyển Ca nhạc cổ điển điệu Bạc Liêu của Trịnh Thiên Tư, từ nhàn cũng được tác giả dùng trong bài Vọng cổ “Tìm bạn lạc loài”: cuối câu 4 [dứt Hò] “…Cung Nga kia hỡi! cho gởi thơ sang, nhắn nhe rõ thấu tin nhàn[43].

Và thực tế qua nhiều cuộc đờn ca tài tử, đa phần nhạc giới cũng thường hay quy chuẩn bậc Hò cho câu 3 tức ca và đàn theo từ “nhàn” mà cũng không ai thắc mắc gì.

Từ dẫn chứng trên, chúng tôi thiết nghĩ nên dùng lại từ nhàn với lời ca câu 3 là “Vào ra luống trông tin nhàn. Như vậy không có gì sai về mặt ngữ nghĩa, khi ca lại rất thuận với chữ nhạc Hò của câu, nghe ra vừa hay lại vừa ý vị mà lại phù hợp với hoàn cảnh, ngôn từ thời đó. Ở câu 20, tất nhiên cũng sẽ là “Cho én nhàn hiệp đôi” để đồng bộ và nghe thuận với chữ nhạc hơn, mặc dù không thành vấn đề như câu 3.

#3. Trong bản chuẩn công bố, phần lời ca không thấy phân nhịp. Nếu phân nhịp, ta sẽ thấy lộ ra sự so le giữa câu ca nhịp ngoại [do cắt bớt lời] với câu đàn vốn là nhịp nội nhưng phải đặt chữ nhạc trong dấu nháy.

Ví dụ câu 6:

Ôi, gan vàng thêm đau     
Liu Xáng Xàng Xề Liu “Ú Liu

Hoặc ngược lại, giữa câu ca vốn là nhịp ngoại với câu đàn nối nhạc thành nhịp nội.

Ví dụ câu 12:

Lòng xin chớ phụ phàng     
Xề Xang Xề Là Hò “Xề Là ”…

Trong thực tế ca diễn bản Dạ cổ hoài lang, đối với các câu phát sinh nhịp ngoại do cắt bớt lời như câu 6, 16 và 20, người ca tự xử lý bằng cách nối thanh qua tiếng đưa hơi “ý…y”/ “ý…a”/ “ớ…ơ”/ “ứ…ư”[44] cho tròn nhịp nội đúng theo nhạc đàn. Vì vậy, nếu ta ghi hẳn tiếng đưa hơi vào câu ca sẽ giải quyết được “dấu nháy” không mong muốn trên. Riêng câu 12, do lời ca là nhịp ngoại (nhạc và lời nguyên gốc v.1, v.2 vốn đều là nhịp ngoại) nên nhạc nối “Xề Là ” cho tròn nhịp nội là sai lạc, câu này cả nhạc và lời đều nhịp ngoại mới hợp lý (thường dùng cho nghỉ nhịp và gõ mô).

Vấn đề là, cần thiết phải phân nhịp ở phần ca từ để cho biết đó là hình thức của một bài ca [theo cách ghi của nhạc cổ truyền]; đồng thời để nhất quán về nhịp giữa nhạc và lời, giúp người tiếp cận hiểu và thể hiện không sai lạc.

#3. Cuối cùng, việc đưa về chuẩn rất cần sự tinh gọn của chữ đàn vì đó là lòng bản. Trên thực tế lưu hành, có rất nhiều dị bản nhạc Dạ cổ hoài lang bởi tính đa dạng của nhạc khí/dây nhạc mà bản đàn khai thác.

Ví dụ trong bốn bản sau đây[45], cùng là câu 3 mà mỗi bản lại có chữ đàn khác nhau:

Bản (v.3): 3. Líu Công Xê Xang Là
Bản LÊ MAI: 3. Tồn Là Líu Công Xê Xang
Bản TRẦN VĂN KHẢI: 3. Xừ Xang Hò Líu Cống Xê Xang
Bản ĐẮC NHẪN: 3. Tồn Cống Xê Xang

Khi giản lược lại, có thể thành Hò Cống Xê Xang và đó là bình thường, không có gì sai. Như thế sẽ làm cho bản nhạc gãy gọn, dễ hiểu và dễ phổ cập hơn. Ở chữ đàn bản (v.3) có một đôi chỗ dạng như vậy, nên cần được tinh chỉnh lại để đáp ứng đó là một bản chuẩn.

4.3. Đề xuất chuẩn hóa bài Dạ cổ hoài lang

Với những nhận xét trên, chúng tôi xin đề xuất nên có sự điều chỉnh lại từ bản chuẩn công bố 2010 theo hướng:

  • sửa lại từ “tin nhạn” thành “tin nhàn” và “én nhạn” thành “én nhàn”;
  • phân nhịp cho lời ca;
  • tinh chỉnh lại chữ đàn.

Theo đó, lòng bản chuẩn ký âm theo lối nhạc cổ truyền sẽ là:

Dạ cổ hoài lang
Nhịp hai, dây Bắc
(Bản chuẩn theo đề xuất của Kiều Tấn)

Sáng tác: Cao Văn Lầu

  1. Là Xang Xê Cống
    Từ là từ phu tướng

  2. Liu Công Liu Công Xê Xang
    Báu kiếm sắc phán lên đàng

  3. Cống Xê Xang
    Vào ra luống trông tin nhàn

  4. Xề Xang Xang Là
    Năm canhmàng

  5. Liu Xáng U Liu Xàng
    Em luống trông tin chàng

  6. Liu Xáng Xàng Xề Liu Ú Liu
    Ôi, gan vàng thêm đau (ý…y)

  7. Là Xang Xê Cống
    Đường dầu xa ong bướm

  8. Xê Líu Xừ Cống Xê Xừ Xang
    Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang

  9. Cống Xê Xang Xự
    Đêm luống trông tin bạn

  10. Xê Líu Xừ Cống Xê Xừ Xang
    Ngày mỏi mòn như đá vọng phu
  1. Xừ, Xang Xừ Cống Xê Xang
    Vọng phu vọng luống trông tin chàng

  2. Xề Xang Xề Là Hò     
    Lòng xin chớ phụ phàng     

  3. Xang Hò Xang Cống
    Chàng là chàng có hay

  4. Xê Líu Xừ Cống Xê Xừ Xang
    Đêm thiếp nằm luống những sầu tây

  5. Liu Công Liu Công Xê Xang
    Bao thuở đó đây sum vầy

  6. Liu Xáng Xàng Xề Liu Ú Liu
    Duyên sắt cầm đừng lợt phai (ý…y)

  7. Xự Cống Xê Xang
    nguyện cho chàng

  8. Xê Líu Xừ Cống Xê Xừ Xang
    Hai chữ an bình an

  9. Liu Công Liu Công Xê Xang
    Trở lại gia đàng

  10. Liu Xáng Xàng Xề Liu Ú Liu.
    Cho én nhàn hiệp đôi (ý…y).

*) Ghi chú: câu nhạc giống nhau: 1 = 7; 6 = 16 = 20; 2 = 15 = 19; 8 = 10 = 14 = 18.

Bản chuẩn ký âm theo lối 5 dòng:

Dạ cổ hoài lang
lòng bản – dây Bắc
(Bản nhạc chuẩn theo đề xuất của Kiều Tấn)

Sáng tác: Cao Văn Lầu

*) Cao độ thực tế của Fa, Sol và Do = Fa+, Sol+r và Do+r [dấu + = cao hơn trong khoảng nửa cung bình quân, r = rung]; nốt Mi = Mir nhưng Mí (er) không rung.

Và giai điệu lời ca chuẩn ký âm theo lối 5 dòng (dựa trên bản ca của đệ nhất nữ danh ca tài tử BẠCH HUỆ):

Dạ cổ hoài lang
(Bản nhạc chuẩn theo đề xuất của Kiều Tấn)

Sáng tác: Cao Văn Lầu

*) Cao độ thực tế của Fa, Sol và Do = Fa+, Sol+r và Do+r [dấu + = cao hơn trong khoảng nửa cung bình quân, r = rung]; nốt Mi = Mir nhưng Mí (er) không rung.

Ngoài ra, lâu nay khi chưa được làm sáng tỏ, ta chỉ căn cứ duy nhất bản (v.3) và từ bản này đã biên tập lại thành bản chuẩn . Giờ đây, có nên chăng công bố thêm một bản gốc (v.2) để mọi người hiểu được ngọn ngành và ứng dụng vào đời sống âm nhạc?

Kết quả nghiên cứu còn là bước đầu, mang tính gợi mở trong việc truy nguyên cũng như góp phần sáng tỏ những vấn đề chung quanh bài Dạ cổ hoài lang. Trong một dịp khác, chúng tôi sẽ giới thiệu tiếp về các thời kỳ phát triển nhịp và sự chuyển hóa của bản Vọng cổ.

Hy vọng đây sẽ là tài liệu tham khảo được mọi người lưu tâm.

Phụ lục 1: Bài ca Nam ai[46]

Tô Huệ chức cẩm hồi văn

  1. Khi vưng chiếu chỉ ra đề cờ
  2. Từ chàng đi vắng bặt tin đợi chờ
  3. Như hồng nhạn kêu thu, sông Hớn bơ vơ
  4. Áo não nùng, luống ngẩn ngơ
  5. Trách bấy ông Tơ se chi mối sầu, vấn vương để như tóc như tơ
  6. Nghĩ mấy lời từ hồi ban sơ
  7. Nhớ những khi thiếp nguyện trăm năm tam tùng thờ
  8. Chàng mần răng ý ngẩn ngơ
  9. Ra đi thăm thẳm mắt ngóng luống nhớ
  10. Cách núi ải biết sao chừ trao thơ
  11. Má phấn duyên phai lạt hồng nhan công đợi chờ
  12. Trướng lý để cho bụi trần nhơ
  13. Kìa cờ ai nghe trống lẫn bóng xa xa
  14. Hay chăng là chiếu triệu chồng ta
  15. Chốn giang biên nọ chàng có hay chăng là
  16. Để lụy tương tư thảm cho phận Hằng Nga
  17. Đêm đông quạnh quẽ tiếng quyên hòa
  18. Gìn lòng son cùng với trăng già
  19. Luông tuồng bao nỡ để vắng bặt tin qua
  20. Hay bướm ấy đã say đắm mê hoa
  21. Chim Ô Thước đã qua sông Ngân Hà
  22. Nỡ nào để loan phụng Sâm Thương
  23. Có biết nơi nao cá nước hiệp một trường
  24. Kẻo nặng lòng hai chữ uyên ương
  25. Ong bướm dẫu say hoa hường
  26. Cũng đoái tưởng chút nghĩa tào khương
  27. Chim báo ngại bay xa cho tận tường
  28. Kẻo trông đợi tháng ngày thương
  29. Trông tin chàng đêm nằm mơ màng
  30. Tỉnh giấc hòe, trằn trọc thở than
  31. Năm canh sầu riêng cho bạn vàng
  32. Phận làm trai hiếu trung cang
  33. Trên bệ ngọc bảo kiếm sắc phán[47]
  34. Chốn giang biên, ra khử trừ loài gian
  35. Nước non xa muôn dặm, da ngựa bọc mình chàng
  36. Tuyết sương lạnh ải Đồng Quan
  37. Chàng chừng mô quay cán đầu khử ngụy bang
  38. Biết bao giờ trở lại Tràng An
  39. Kẻo thân này mày xanh sầu võ vàng
  40. Xem đài gương luống thẹn phận hồng nhan
  41. Châu rơi lã chã, lụy tuôn đôi hàng
  42. Hiềm vì ai xuôi duyên phận lỡ làng
  43. Ngàn trùng xa cách như khách ở ngoại bang
  44. Bao nỡ để cho Chức Nữ - Ngưu Lang
  45. Thuở ra đi bao lá vàng
  46. Bây chừ đã trắng mai rỡ ràng
  47. Cụm quế xơ rơ bóng nguyệt tàn
  48. Ơn kia chưa trả sao oán nọ liền mang
  49. Nghe tiếng dế năm canh mơ màng
  50. Ngỡ lạc ngựa chàng đã hồi bang
  51. Nguyên cớ nào bặt tin lòng phụ phàng
  52. Để gió thảm mưa lại sầu khan
  53. Chẳng biết nơi nao chàng quay gót trở về
  54. Đặng đai vàng, thẻ bạc biểu bia
  55. Răng rứa bạn niềm tây, nhớ nghĩa nhớ nghĩa
  56. Kẻo hổ phận này như chút phận bèo kia
  57. Mây bay khói tỏa như bóng cờ rìa
  58. Trống trường thành đà giục trở canh khuya
  59. Bâng khuâng nhớ chàng như nhạn nọ chích lìa
  60. Lạy ông Trời, chớ để phân chia
  61. Từ chàng ra chốn cung đao
  62. Trông tin chàng[48] như cá trông sao
  63. Ôm gối phụng chờ trông, áo não áo não
  64. Sao nỡ quên lời hứa hẹn sông giao
  65. Ai lấp thảm cho khuây má đào
  66. Tương tư này răng thấu cung cao
  67. Ơn trên tha về cho rõ âm hao
  68. Hiệp một nhà phỉ bấy ước ao.

Phụ lục 2:

Hành vân[49]
(dây Bắc - nhịp hai)

  1. Xự Cống Xê Xang
  2. Xự Cống Xê Xang
  3. Xê Xang Là Hò Xự Xang
  4. Xế Xang Tồn Xang Xê Cống
  5. Tồn Cống Liu Cống Líu
  6. Cống Xang Hò Là X
  7. Xế Xang Tồn Xang Xê Cống
  8. Xê Xang Líu Xừ Xang
  9. Hò Là Cống Xê Xang
  10. Hò Xê Xang X
  11. Xê Xang Là Hò Xự Xang
  12. Xự Cống Xê Xang
  13. Liu Liu Xề Liu Cộng
  14. Xề Cộng Liu Cộng Liu Ú Liu
  15. Xế Xang Tồn Xang Xê Cống
  16. Xừ Cống Liu Công Xê Xang
  17. Liu Cống Liu Công Xê Xang
  18. Xề Cộng Liu Cộng Liu Ú Liu
  19. Hò Là Cống Xê Xự Xang
  20. Xế Xang Tồn Xang Xê Cống
  21. Cống Xê      Xang Xự Xế Xang.

Phụ lục 3:

Vọng cổ hoài lang[50]

  1. (Hò) Là Xang Xê (Cống)
  2. Ú (Liêu) Ú Liêu Công Xê (Xàng)
  3. Tồn Là (Xê) Líu Công Xê Xang (Hò)
  4. Hò Xang (Xể) Là Hò (--)
  5. Tồn (Liêu) Xáng U Liêu (Xề)
  6. Liêu Ú (Xề) Tồn Liêu Ú (Liêu)
  7. Là (Hò) Là Xang Tồn Xê (Cống)
  8. Xê Cống (Xừ) Xang Xê Cống Xừ (Xang)
  9. Tồn Là (Xê) Liếu Cống Xê Xang (Xự)
  10. Xừ Xê (Xừ) Xàng Xê Cống Xừ (Xang)
  11. Xừ Xê (Xừ) Cống Xê Xang (Hò)
  12. Hò Xang (Xể) Là Hò (--)
  13. Xê (Xang) Xê Xang Tồn Xang (Xê)
  14. Xê Cống (Hò) Xang Xê Cống Xừ (Xang)
  15. Là Là (Xê) Cống Xê Xang (Hò)
  16. Liêu Ú (Xề) Tồn Liêu Ú (Liêu)
  17. Là (Xự) Cống Xê Xang (Hò)
  18. Xê Cống (Hò) Xàng Xê Cống Xừ (Xang)
  19. Là Là (Xê) Liếu Cống Xê Xang (Hò)
  20. Liêu Ú (Xề) Tồn Liêu Ú (Liêu)

*) Ghi chú: Bản này chép lại theo nguyên gốc: nhịp ghi theo lối dấu ngoặc đơn; Liu viết thành Liêu. Ngoài ra, Xự = Xừ; Tồn = Xàng dây buông; Là = Hò dây buông.



TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. CAO VĂN BỈNH (2010), “Quê hương Bạc Liêu trong cuộc đời và sự nghiệp của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu”, 90 năm - bản Dạ cổ hoài lang, Sở VHTT&DL Bạc Liêu, 127- 136.

  2. PHẠM DUY (1972), Đặc khảo về dân nhạc ở Việt Nam, Hiện đại, Sài Gòn.

  3. DƯƠNG BÍCH HÀ (1997), Lý Huế, Viện Âm nhạc, nxb Âm nhạc, Hà Nội.

  4. TRẦN VĂN KHẢI (1970), Nghệ thuật sân khấu Việt Nam, nhà sách Khai trí, Sài Gòn.

  5. NGUYỄN TUẤN KHANH (2018), Bước đường của Cải lương, nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

  6. CAO VĂN LẦU (1963), “Bản Vọng cổ ngày nay là đứa con chung của quý vị”, báo Dân quyền, ngày 21-11-1963.

  7. ĐẮC NHẪN (1987), Tìm hiểu âm nhạc Cải lương, nxb TP Hồ Chí Minh.

  8. NGUYỄN TỬ QUANG (1959), Thử tìm xuất xứ bài Vọng cổ, Bách khoa, số 63, ngày 15-8-1959.

  9. KIỀU TẤN:
    • (1993), “Tìm hiểu điệu thức trong âm nhạc Tài tử Nam Bộ”, Thang âm điệu thức trong âm nhạc truyền thống một số dân tộc miền Nam Việt Nam, Viện Văn hóa nghệ thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh, 303-400.
    • (1997), Cây đàn ghi ta phím lõm (Untersuchungen zur ghi ta phím lõm), Deutsch- Vietnamesische Gesellschaft e.V. Berlin, 92 trang.

  10. TRẦN MINH TIÊN và LÊ MINH CHÁNH (1989), Tìm hiểu Nghệ thuật sân khấu Cải lương, Sở VHTT Long An.

  11. SỸ TIẾN (1984), Bước đầu tìm hiểu sân khấu Cải lương, nxb TP Hồ Chí Minh.

  12. TRƯƠNG BỈNH TÒNG (1997), Nghệ thuật cải lương những trang sử, Viện Sân khấu.

  13. TRỊNH THIÊN TƯ (1962), Ca nhạc cổ điển điệu Bạc Liêu, nxb Quốc hoa Bạc Liêu.

  14. VŨ VĂN THIỆN (1963), “Bạc Liêu, Vọng cổ và Sáu Lầu”, báo Dân quyền, ngày 23 và 24-11-1963.

  15. CAO KIẾN THIẾT (2009), “Ba tôi với sự ra đời bản Dạ cổ hoài lang”, Vọng mãi bản Dạ cổ hoài lang, Sở VHTT&DL Bạc Liêu, 61-69.

  16. TRẦN PHƯỚC THUẬN:
    • (2010), “Bút tích của ông Cao Văn Lầu qua bản Dạ cổ hoài lang”, 90 năm - bản Dạ cổ hoài lang, Sở VHTT&DL Bạc Liêu, 69-76.
    • (2014), Tìm hiểu cổ nhạc Bạc Liêu, nxb Âm nhạc Liên hiệp Hội VHNT tỉnh Bạc Liêu.

  17. LƯ NHẤT VŨ (và LÊ GIANG)
    • (1983), Tìm hiểu dân ca Nam Bộ, nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
    • (1993), “Vấn đề thang âm điệu thức trong dân ca người Việt ở Nam Bộ”, Thang âm điệu thức trong âm nhạc truyền thống một số dân tộc miền Nam Việt Nam, Viện Văn hóa nghệ thuật tại TP Hồ Chí Minh.

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

  1. https://vi.wikipedia.org/wiki/Cao_V%C4%83n_L%E1%BA%A7u

  2. https://tranquanghai.info/v1/p1853-trinh-thien-tu-%3A-tieu-su-bai-vong-co.html

  3. http://www.youtube.com/watch?v=CAh3ePdp9DM

BĂNG ĐĨA

  1. File audio chép từ đĩa Pathé, tuồng Kim Vân Kiều, hồi thứ tư, Vọng cổ hoài lang, HAI CÚC ca, số 44623, Ban hát Cải lương của Thầy NĂM TÚ ở tại Mỹ Tho (1922-1928).

  2. File audio chép từ CD Những bài ca chuyên nghiệp cổ truyền 2, Dạ cổ hoài lang, ÚT TRÀ ÔN ca, Hà Nội, Viện Âm nhạc (khoảng cuối thập niên 1940).

  3. Băng cassette Phỏng vấn nhạc sĩ CAO VĂN LẦU, Sài Gòn, 1963.

  4. Băng cassette Nhạc hội Tài tử và cải lương TPHCM, Dạ cổ hoài lang, TƯ NGỌC ÁNH ca, 1981.

  5. Băng cassette Dạ cổ hoài lang 22 câu, TẤN ĐẠT ca, 1992.

  6. File audio chép từ đĩa Dạ cổ hoài lang, ÁI LIÊN ca, nxb đĩa hát Việt Nam, Hà Nội (khoảng giữa thập niên 1950).

  7. CD ca nhạc tài tử Ngược dòng - giọng ca HÀ THU, Phương Nam phim, 2007.

CHÚ THÍCH:

[1] Nguyễn Quang Đại tục danh Ba Đợi. Tương truyền ông là quan nhạc triều đình Huế, vào Nam khoảng 1885 và sinh sống ở vùng Đa Kao rồi về miệt Cần Đước, mất (không rõ năm) tại Rạch Cát, Bình Đông (Quận 8, TPHCM). Ông có công lớn trong việc hoàn thiện, hoàn chỉnh, hoàn thành và được tôn vinh là hậu Tổ nhạc Lễ và nhạc Tài tử.

[2] Trần Quang Quờn còn gọi Kinh lịch Quờn, Ký Quờn (1875-1946). Ông là người tài hoa toàn diện về âm nhạc: sử dụng nhiều loại đờn, chế tác nhạc khí, sáng tác bài bản mới và sáng tạo lối ghi nhạc riêng…

[3] Lê Tài Khí tục danh Nhạc Khị, Hai Khị (1870-1948). Ông có biệt tài trong biểu diễn nhạc khí, sáng tác và truyền dạy nhạc Lễ và nhạc Tài tử, được xem là người khai sinh ra trường phái cổ nhạc Bạc Liêu và tôn vinh là hậu Tổ.

[4] Theo điển tích: Nàng Tô Huệ là người con gái dệt lụa, có chồng đi lính thú phương xa (có thuyết nói Tô Huệ [357-?] có chồng là Đậu Thao – quan thứ sử thời Tiền Tần, Trung Quốc, bị hãm hại và đày nơi núi sông hiểm trở). Sau ba năm mòn mỏi chờ mong, với tài văn chương xuất chúng, Tô Huệ thêu 10 bài thơ tứ tuyệt trên bức gấm vuông để tặng chồng, mỗi chữ bố trí theo kiểu đọc vòng quanh, qua lại đều được. Bài “Chức cẩm hồi văn” [Bài thơ hồi văn dệt trên gấm] khiến nhà vua cảm động và phục tài nên đã hạ chiếu cho vợ chồng sum họp.

Tích Tô Huệ đã truyền bá vào Việt Nam và vào cuối thế kỷ XIX phổ biến qua bài Nam xuân, Nam ai “Tô Huệ chức cẩm hồi văn”, được giới nhạc Tài tử xem là một trong những bài ca kinh điển (xem phụ lục).

[5] Theo công bố trước đây, Cao Văn Lầu sinh năm 1892, tại làng Thạnh Hội Hạ. Tuy nhiên trong thẻ căn cước cũ [sử dụng từ 1970-1976] ghi năm sinh là 1890; từ năm 2014 trên mộ bia của ông trong Khu di tích cũng được sửa lại năm sinh là 1890. Riêng chi tiết làng Thạnh Hội Hạ, trong bức tâm thư của ông đăng trên báo Buổi sáng (và một số báo khác ở Sài Gòn), ngày 18-11-1963 có ghi rõ: “Tôi là nhạc sĩ Cao Văn Lầu, 73 tuổi, T.K.T số 62074, sanh tại làng Thạnh Mục Hạ (1890), Tân An, cư ngụ làng Vĩnh Lợi, Bạc Liêu”.

[6] Vào năm 1979, chúng tôi có sưu tầm một đoạn băng “Phỏng vấn nhạc sĩ Cao Văn Lầu” với thời lượng 7’39, do Kiên Giang thực hiện ngày 15-11-1963 tại trụ sở Ban ca kịch Kiên Giang, đường Nguyễn Tấn Nghiệm (Hồ Hảo Hớn bây giờ), Sài Gòn. Nội dung gồm các câu hỏi và trả lời về nguồn gốc và tương lai bản Vọng cổ, đặc biệt là bản Hoài lang được chính tác giả thể hiện bằng ngón đàn cò. Đây là tư liệu lưu lại giọng nói và tiếng đàn của tác giả rất có giá trị về mặt lịch sử, nó minh chứng cho nguyên nhân và trường hợp sáng tác cũng như bản Hoài lang là nguyên gốc ban đầu của bài Dạ cổ hoài lang. Tư liệu này chúng tôi vừa tặng lại Khu di tích Cao Văn Lầu tỉnh Bạc Liêu, tháng 11-2018.

[7] Theo LƯ NHẤT VŨ (1983, tr. 295-297), hệ thống thang âm điệu thức Oán gồm 5 dạng: Oán nguyên thể hay Oán 1 [Re, Fa, Sol, La, Si] và 4 biến thể: Oán 2 [Re, Fa#, Sol, La, Si], Oán 3 [Re, Fa, Sol, La, Sib], Oán 4 [Re, Fa#, Sol, La, Sib], Oán 5 [Re, Fa#, Sol, La, Do]. Từ đây, chúng tôi tạm dùng tên các dạng Oán này [chủ yếu là Oán 1 và Oán 3] trong phân tích để tiện việc đối chiếu, riêng dạng Oán 1 được gọi tắt là Oán cho gọn.

[8] Một số tài liệu cho rằng việc góp ý này là của Ba Chột/Bảy Kiên/Trần Xuân Thơ…

[9] Đây là bút tích viết tay của chính tác giả chép tặng cho ông Trần Phước Thuận vào năm 1974, hiện trưng bày tại Khu di tích Cao Văn Lầu, Bạc Liêu.

[10] v. là viết tắt của version tức phiên bản.

[11] xem Phụ lục 1.

[12] Sư Nguyệt Chiếu (1882-1947) – tinh tường Hán học và nhạc Lễ, được xem là một trong hai cánh chim đầu đàn, sau Nhạc Khị, của trường phái canh tân và hiệu đính cổ nhạc Bạc Liêu.

[13] Cao Văn Lầu, https://vi.wikipedia.org/wiki/Cao_V%C4%83n_L%E1%BA%A7u.
Theo Nguyễn Tuấn Khanh (2018, tr. 183), Nguyệt Chiếu đặt tên bài “Dạ cổ hoài lang” là lấy ý từ hai câu trong bài Nam ai “Tô Huệ chức cẩm hồi văn” (theo văn bản của Phụng Hoàng Sang, 1905):
- câu 54 (58): Trống trường thành, rung trở canh khuya (khuya = dạ, trống = cổ);
- và câu 55 (59): Bâng khuâng nhớ chàng, như nhạn chích lìa (nhớ chàng = hoài lang).

[14] xem Phụ lục 2.

[15] Nguồn Nguyễn Tuấn Khanh (2018). Do đĩa quá cũ nên chất lượng âm thanh khá mờ nhạt, chúng tôi đã rất cố gắng ký âm nhưng một số lời ca nghe không rõ phải để trống.

Bài này có cấu trúc kết câu hoàn toàn giống bản đàn trong Bài đờn cải lương của Lê Mai 1924 (xem Phụ lục 3).

[16] Theo Dương Bích Hà (1997, tr. 142-143), thang 5 âm: Hò, Xự, Xang+r, Xê, Cống trong Ca Huế gọi là điệu Nam hơi Ai, mang âm hưởng buồn. Khi bài nhạc có thang âm này nhưng trong đường nét giai điệu xuất hiện nhiều bậc Xự, Cống [của điệu Bắc] làm cho tính chất không buồn như hơi Ai mà có phần nghiêng về hơi Bắc tạo ra một thứ hơi trung gian là hơi Dựng và được gọi là điệu Nam hơi Dựng hay điệu Bắc hơi Khách.

[17] Cao Kiến Thiết (2009, tr. 61).

[18] Cao Văn Bỉnh (2010, tr. 131-132).

[19] xem Trương Bỉnh Tòng (1997, tr. 81).

[20] Cao Kiến Thiết (2009, tr. 61).

[21] Vũ Văn Thiện (1963).

[22] Trần Tựu Thành, Bài ca Lục Vân Tiên, Mỹ Tho, Imprimerie Provinciale, 1923, trang 5 (xem Nguyễn Tuấn Khanh 2018, tr. 219).

[23] Chúng tôi có đọc (từ năm 1980) trong một bài viết đăng trên Bách khoa, số và năm nào không nhớ rõ.

[24] Sau hơn một năm khai sinh bài Dạ cổ hoài lang, ngày 27-10-1920 con trai đầu lòng Cao Văn Hùng (tức Cao Kiến Thiết) của vợ chồng Cao Văn Lầu ra đời và hai người được tái hợp như xưa.

[25] https://tranquanghai.info/v1/p1853-trinh-thien-tu-%3A-tieu-su-bai-vong-co.html. Có lẽ Trịnh Thiên Tư đã viết nhầm Trần Xuân Thơ thành Trần Ngọc Thơ và Ba Xú thành Hai Xú.

Theo chúng tôi, ý nghĩa Vọng cổ “nhớ người xưa” ở đây phù hợp với ý kiến giải thích “nhớ lại chuyện dĩ vãng” trên.

[26] Trần Văn Khải (1970, tr. 132).

[27] Sỹ Tiến (1984, tr. 29)

[28] Trần Phước Thuận (2014, tr. 367-369).

[29] 1) Ba Vàm Lẻo, tập chép nhạc của Đỗ Lộc Châu [xem Trần Phước Thuận 2014, tr. 346-347];
2) Ái Liên, Dạ cổ hoài lang, nxb đĩa hát Việt Nam, Hà Nội [thập niên 1950];
3) Nguyễn Tử Quang, “Thử tìm xuất xứ bài Vọng cổ”, Bách khoa số 63, ngày 15-8-1959, tr. 66;
4) Trần Văn Khải (1970, tr. 115-117);
5) Phạm Duy (1972, tr. 188) v.v...

[30] Trong bản của cô Ba Vàm Lẻo nguyên ghi là “sắc phong”, tuy nhiên trong tập chép nhạc của Đỗ Lộc Châu chép lại là “sắc phán” do thích dùng từ này theo chỉnh sửa của tác giả hơn [xem Trần Phước Thuận 2014, tr. 346]. Có thể tham khảo thêm giai điệu của bài ca này qua trình bày của Út Trà Ôn mà chúng tôi ký âm nơi trang 28.

[31] Tư liệu cá nhân, Dạ cổ hoài lang 22 câu.

[32] Võ Văn Khuê tức Hai Khuê – nguyên giảng viên Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh.

[33] CD ca nhạc tài tử Ngược dòng, giọng ca Hà Thu, 2007.

[34] Dẫn theo Nguyễn Tuấn Khanh (2018, tr. 208).

[35] Theo chúng tôi, có lẽ do tác giả muốn bậc kết câu 5 giống với bậc kết của câu 15 và 19. Như thế, sẽ đồng bộ trong các cặp câu kết lớp I, II và III tức câu 5-6, 15-16 và 19-20 đều tiến hành về kết là Xàng, Liu.

[36] xem Nguyễn Tuấn Khanh (2018, tr.246)

[37] xem Nguyễn Tuấn Khanh (2018, tr.208).

[38] Tư liệu cá nhân, Những bài ca chuyên nghiệp cổ truyền 2, Hà Nội, Viện Âm nhạc.

[39] https://www.youtube.com/watch?v=CAh3ePdp9DM: Trong câu 4, cô Bạch Huệ đã ca nhầm “mơ màng thành “mơ nhàn(TG).

[40] Tư liệu cá nhân, Nhạc hội Tài tử và Cải lương Thành phố Hồ Chí Minh, 1981.

[41] Nguyễn Tuấn Khanh (2018, tr. 197).

[42] xem Nguyễn Tuấn Khanh (2018, tr. 233).

[43] Trịnh Thiên Tư (1962, tr. 189).

[44] Vì là âm nối thanh nên “ý…y”… là âm phát ra do cuống mũi, không cần phải dùng nhiều hơi hoặc há to miệng. Một số người ca không nắm rõ, đã ca với nhiều hơi và âm miệng là không đúng với tính chất của nó (TG).

[45] Bản LÊ MAI xem Phụ lục 3; TRẦN VĂN KHẢI (1970, tr. 117); ĐẮC NHẪN (1987, tr. 162).

[46] Chép theo TRẦN PHƯỚC THUẬN (2014, tr.341-343).

[47] Trong bản của Phụng Hoàng Sang, Bản đàn tranh và bài ca, Sài Gòn, F.H. Schneider, 1905, câu này in là “Bệ ngọc trên báu kiếm sắc phán

[48] Trong bản của Phụng Hoàng Sang, câu này in là “Trông thơ nhàn tợ cá trông sao”.

[49] Trịnh Thiên Tư, Ca nhạc cổ điển điệu Bạc Liêu, nxb Quốc Hoa, Bạc Liêu, tr. 330-331.

[50] Lê Mai, Bài đờn cải lương, Sài Gòn, Lê Mai ấn quán, 1924.



BẢN PDF ĐỂ IN: