Những sắc thái riêng biệt trong tín ngưỡng dân gian miền Nam

Người Việt Nam nói chung là một dân tộcrất coi trọng tín ngưỡng. Ngoài việc thờcúng tổ tiên trong nhà, người Việt Nam còn thờphượng rất nhiều thần linh trong nhiềucơ sở tôn giáo khác nhau, trong đó “đình” làmột cơ sở mang đặc tính văn hóa tiêubiểu của người Việt. Mổi làng, đơnvị dân cư căn bản của người Việt,đều có một ngôi đình để thờ Thành Hoàngbổn cảnh, vị thần được sắc phongcủa vua có nhiệm vụ che chở cho dân làng.

Tổ tiên của người Việt vùng ĐồngBằng Đồng Nai - Cửu Long (sau đây sẽviết tắt là ĐBĐNCL), những lưu dân từĐàng Trong đã vào khai phá, lập nghiệp ở vùngnầy trong các thế kỷ 17 và 18, cũng đã tiếptục truyền thống văn hoá Việt nầy. Họcũng lập làng, dựng đình và thờ Thành Hoàng. Tuynhiên, cũng giống như trong các nét văn hoá khác trongvùng ĐBĐNCL, những lưu dân nầy đã tạo ranhững biến đổi trong văn hoá Việt vềphương diện tín ngưỡng (1).

Bài viết nầy cố gắng ghi lại nhữngsắc thái riêng biệt của văn hoá tín ngưỡngdân gian trong vùng ĐBĐNCL.


Những Cơ Sở Của Biến Đổi VănHóa

Biến Đổi Tâm Thức Của Những LưuDân

Theo dòng Nam Tiến của dân tộc, những lưu dânĐàng Trong trong quá trình xuôi Nam nầy, do hoàn cảnhphải đương đầu với những khókhăn lớn lao về mọi mặt, đã phảitự tạo cho mình một bản lãnh anh hùng độcđáo, dám nghĩ, dám làm, hoàn toàn không quá câu nệ vàotập tục truyền thống. Cá tính phóng khoáng nầy,mà người viết xin tạm gọi là “vượtqua tâm thức lũy tre xanh”, một phần nữacũng do ảnh hưởng địa lý của vùngđất mới đem lại. Cái không gian mênh mông, hùngvĩ, như của thời hồng hoang, (mà ChâuĐạt Quan, sứ thần nhà Nguyên (thế kỷ 13),đã mô tả trong quyển Chân Lạp Phong Thổ Kýcủa ông như sau: “Trên các dải đồng hoang,hàng trăm ngàn trâu rừng tụ họp thành bầy,đàn…” (2) của ĐBĐNCL làm sao không ghi lainhững dấu ấn đậm nét trong tâm thứccủa những lưu dân nầy. Cụm từ “địalinh nhân kiệt” mang một ý nghĩa vô cùng thựctiển trong trường hợp nầy.

Sự biến đổi tâm thức nầy vô cùng quantrọng vì tư tưởng là cơ sở tạo ra hànhđộng. Trên con đường đi tìm mộtcuộc sống mới trong một môi trường hoàn toànxa lạ, người lưu dân không thể hành độngrụt rè, dựa trên lối mòn của những nếp suynghĩ cũ kỷ, trên sách vở cổ điển.Giống như thế hệ của chúng ta hiện nay,bị bứng ra khỏi môi trường thuần Việtsau ngày 30-4-1975 và phải vượt qua những khó khăncủa một môi trường sinh sống hoàn toàn xalạ, tổ tiên của chúng ta đã phải chấpnhận những cái “mới” để có thểsinh tồn. Cái “mới” ở đây là nhữngcái gì ? Gần như tất cả mọi thứđều là mới hết. Từ những điềukiện khách quan như địa lý, khí hậu, đấtđai, môi trường, các nền văn hoá bảnđịa, cho đến những điều kiệnchủ quan, như tâm thức, tâm lý và tâm cảnh củalưu dân, tất cả đều mới hết. Vượtlên trên tất cả những cái mới nầy, tâm thứcmới là yếu tố quyết định hàngđầu. Tâm thức mới nầy nẩy nởđược phần lớn cũng do nơi cá tính tâm lýđã có sẳn nơi những lưu dân. Cho dù họ lànhững quan quân được chỉ định vào Namđể mở dinh điền, hay là những nông dân nghèovùng Thuận-Quảng, muốn tìm một cuộc sốngmới sung túc hơn đồng thời tránh xa cuộcnội chiến Nam-Bắc, hoặc là những tộiđồ phải lưu xứ, mẫu số chung vềtâm lý của họ là những người thích “phiêulưu, mạo hiểm, tự do, phóng túng, ít chịu cúiđầu thần phục trước uy quyền, cũngnhư ít bị ràng buộc vào khuôn khổ phong kiến.”(3) Nói một cách khác, họ là những người khôngchịu khuất phục trước những khuôn khổcủa vùng đất cũ. Vì vậy họ có thểdễ dàng chấp nhận những cái mới, vượtra ngoài khuôn khổ của những truyền thốngcủa vùng đất cũ.

Ảnh Hưởng Của Khung Cảnh ĐịaLý 

Trong cuộc Nam Tiến, người lưu dân ĐàngTrong, sau khi vào đến vùng ĐBĐNCL, chắc chắnkhông khỏi bàng hoàng trước không gian mênh mông củavùng đất mới nầy, vì trước đó, tronghàng thế kỷ, tầm nhìn của họ đã bịkhép chặt lại bởi dải Trường Sơn trênnhững cánh đồng duyên hải chật hẹp. Khôngnhững mênh mông, ĐBĐNCL còn là một vùng đấtphì nhiêu với tài nguyên vô cùng phong phú, khác hẳn với cáccánh đồng duyên hải chật hẹp, nghèo nàn củavùng Thuận-Quảng. Cuộc sống của ngườilưu dân trong vùng đất mới, tuy có rất nhiềukhó khăn lúc đầu trong việc khai khẩn, nhưngrõ ràng là sung túc hơn rất nhiều so vớitrước đó. Câu nói đã truyền tụng trong dângian Miền Nam, “làm chơi ăn thiệt,”đâu phải là không có cơ sở. Do cuộc sốngtương đối dễ dàng hơn rất nhiều sovới cuộc sống ở vùng đất cũ, cá tínhtâm lý của người lưu dân cũng dần dàbiến đổi, trở nên rộng rãi, phóng khoáng hơn.Lại nữa, trong cuộc đấu tranh gian khổvới thiên nhiên, người lưu dân luôn luôn cần có bèbạn để giúp đở nhau cùng vượt qua khókhăn. Nhu cầu sinh tồn nầy dần dà cũngtạo ra trong người lưu dân tính nghĩa hiệp,sẳn sàng giúp đở những người chẳng maylâm nạn. Câu “kiến nghĩa bất vi” (4)đã trở thành một mẫu mực sống củangười dân ĐBĐNCL.

 

Sự Tiếp Xúc Với Các Nền Văn Hóa BảnĐịa

Khởi đi từ vùng Thuận Quảng, ngườilưu dân Việt đã được tiếp cậnvới một số nền văn hoá bản địaphi-Việt. Trước hết là văn hóa Chiêm Thành.Mặc dù bị Đại Việt đánh bại vềphương diện quân sự (và sau đó sẽ bịbại vong luôn), Chiêm Thành đã để lại nhiềuảnh hưởng sâu đậm trong văn hóa Việt,đặc biệt là về âm nhạc và tôn giáo. Riêng vềphương diện tôn giáo, tín ngưỡng (đề tàicủa bài viết nầy), nhiều thần linh củaChiêm Thành đã được lưu dân Việt tiếpnhận và thờ phượng. Sau khi tiến vào lưuvực Đồng Nai, lưu dân Việt chính thứctiếp cận với một nền văn hoá bảnđịa phi-Việt mới: đó là văn hóa Chân Lạp,một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâuđậm của văn hóa Ấn, với một tôn giáođa-thần vô cùng phong phú. Tuy không phải chịu chungsố phận bị diệt vong hoàn toàn như Chiêm Thành,Chân Lạp cũng phải chịu lùi bướctrước sức Nam Tiến của dân tộc Việt.Mặc dù vậy, Chân Lạp cũng tạo rađược những dấu ấn quan trọng trong tínngưỡng dân gian của người Việt.

Trong khía cạnh ảnh hưởng của các nềnvăn hóa bản địa phi-Việt nầy,người viết nghĩ rằng cũng nên kểđến những đóng góp rất quan trọng củangười Minh Hương. Người Minh Hương làmột cụm từ dùng để chỉ chung tấtcả những người thuộc sắc tộc Hoađã rời bỏ đất nước họ sang “tỵnạn chánh trị” tại Đàng Trong vào hậu bánthế kỷ 17 (1679)( 5) sau khi nhà Minh bị bại vong vànhà Thanh thiết lập được chính quyềntại Trung Hoa. Điều quan trọng cần lưu ý làvề sau họ hoàn toàn hội nhập vào cuộc sốngtại quê hương mới và trở thành những công dânViệt (khác hẳn với người Hoa Kiều nhậpcư vào Việt Nam trong thời Pháp thuộc). Họ đãcung ứng nhiều yếu tố rất tích cực vàovăn hoá Việt nói chung và tín ngưỡng dân gian Việtnói riêng. Riêng tại Saigon hiện nay vẫn còn một ngôiđình rất lớn và cổ kính của người MinhHương (tái thiết lần cuối cách đây đãtrên 100 năm).(6)

 

Sắc Thái Riêng Biệt Của Tín Ngưỡng Dân GianĐBĐNCL

Cũng giống như người Việt tỵnạn hiện nay ở khắp nơi trên thế gới,người lưu dân Đàng Trong, trong cuộc xuôi Nam trongcác thế kỷ 17, và 18, đã ra đi “mang theo quêhương.” Cụ thể nhứt củaviệc nầy là cách đặt tên cho những vùngđất mới bằng tên của các vùng đấtcũ ở quê hương mình. Tháng hai năm MậuDần (1698), Thống suất Nguyễn Hữu Cảnhđược Chúa Nguyển Phúc Chu (Quốc Chúa, 1675-1725) pháivào kinh lược đất Chân Lạp (7). Vềphương diện hành chánh, Ngài lấy xứ ĐồngNai làm Huyện Phước Long, dựng Dinh Trấn Biên(Biên Hòa ngày nay), và lấy xứ Sài Côn làm Huyện Tân Binh,dựng Dinh Phiên Trấn (Sàigon ngày nay) (8). Làng PhướcLong, thuộc Huyện Tân Bình, xứ Quảng Bình chính lànơi chào đời của Ngài. Về sau, ngườiMiền Nam thường tự hào rằng mình là “dân haihuyện” chính là để chỉ hai huyệnPhước Long và Tân Bình nầy. Sự tri ân củangười Miền Nam đã thể hiện rấtđậm nét qua sự kiện gần như khắp nơiở Miền Nam đều có đền thờ quanChưởng Cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn HữuCảnh. Sự tôn kính của người Miền Namđối với quan Chuởng Cơ còn thể hiện quacả ngôn ngữ hằng ngày: người Miền Nam kiêngcử chữ Cảnh, và nói trại đi là “kiển(g)”(9). Ở Sài Gòn hiện nay vẫn còn ngôi đình mang tên làĐình Tân Kiển(g), tọa lạc tại số 718/10đường Trần Hưng Đạo A, thuộcPhường 2, Quận 5. Tên húy của Ngài là Kính cũngđược dân chúng Miền Nam kiêng cử và gọitrại đi là Kiến(g). Từ đó ngườiMiền Nam luôn luôn dùng chữ kiếng thay cho chữ kính,như tấm kiếng, tủ kiếng, lộngkiếng…Người dân Miền Nam chỉ gọi ngài làQuan Chưởng Cơ và danh xưng nầy đượcđặt cho một số địa danh ở vùngđồng bằng sông Cữu Long (Cù Lao Ông Chưởng)và đi vào ca dao Miền Nam như:

Lắng nghe quạ nói với diều

Cù Lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm

Ngoài việc đặt tên đất để nhớđến quê hương của mình, người lưudân còn cố gắng duy trì nền văn hóa của mình trênquê hương mới, thể hiện rõ nét qua việcthực hiện chế độ dinh điền (đãthành công qua bao thế hệ ở vùng Thuận-Quảng),khai khẩn đất đai (để trồng lúa),lập làng (để sống quần tụ với nhau),và cất đình (để thờ phượng thần linhcủa mình). Tuy nhiên, trong cung cách thể hiện nếpsống văn hóa của mình, người lưu dân,với tâm thức mới, trong khung cảnh địa lýmới, cũng như với ảnh hưởng củacác nền văn hóa bản địa, đã có nhữngsáng tạo độc đáo, tạo ra đượcnhững sắc thái rất đặc biệt trong vănhóa tín ngưỡng dân gian, mà Đàng Ngoài không có. Chúng tacố gắng tìm hiểu những sắc thái riêng biệtnầy qua hai phương diện: hệ thống thầnlinh và cơ sở vật chất, mà đình là cơ sởquan trọng nhứt.

 

Hệ Thống Thần Linh

Là con dân trung thành của Chúa Nguyễn, ngườilưu dân Đàng Trong không mang tâm trạng “hoài Lê” như dânĐàng Ngoài. Thực tế nầy đã đưađến việc Nhà Nguyễn về sau tin dùngngười Nam Hà hơn là người Bắc Hà, thậmchí các vua Nhà Nguyễn chỉ chọn người chínhthất là người Nam mà thôi. Từ tâm lý “không hoài Lê”nầy, người lưu dân Đàng Trong, tuy không chốibỏ, nhưng cũng không cảm thấy bị hoàn toànràng buộc vào hệ thống thần linh của ĐàngNgoài. Họ du nhập tương đối thoải máicác thần linh của các văn hóa bản địa màhọ đã tiếp cận trên đường NamTiến.

Nói chung hệ thống thần linh của dân tộcViệt, chịu ảnh hưởng sâu đậm củavăn hóa Trung Hoa dựa trên Tam Tài là Thiên-Địa-Nhân,luôn luôn bao gồm ba bộ phận: Thiên Thần (cácthần có nguồn gốc thiêng liêng, từ cỏitrên--Thiên-- xuống), Nhiên Thần (các thần tượngtrưng cho các sức mạnh của thiên nhiên--Địa--như Sơn Thần, Thủy Thần, Thổ Thần…), vàNhân Thần (các thần có nguồn gốc làngười—Nhân--nhưng do hành trạng đặc biệtđã được tôn vinh lên bực thần). Hệthống thần linh của người Miền Nam cũngkhông vượt ra ngoài tính cách chung nầy. Tuy nhiên, hệthống thần linh của Miền Nam, so với hệthống của Miền Bắc, có “số lượngít, chủ yếu gắn bó với các giai đoạnlịch sử từ thời các Chúa Nguyễn về sau.”(10).

 

Thiên Thần

Trong khối Thiên Thần, những vị thầnđược thờ phượng phổ biến ởlưu vực sông Hồng, như Đức Thánh MẫuLiễu Hạnh, Đức Thánh Gióng (Phù Đổng ThiênVương), vv, gần như vắng mặt trong hệthống Miền Nam. Tuy nhiên, thỉnh thoảng các vịnầy có thể được nhắc nhở đếntrong các bài văn tế khi lễ hội. Một khácbiệt quan trọng nữa là trong khối thiên thầnở Miền Nam ta thấy thiếu vắng hẳnnhững ‘Phúc Thần.’ Nhà nghiên cứu văn hoá Miền Namlảo thành nổi tiếng Sơn Nam đã khẳngđịnh: “Ở đồng bằng sông Cửu Long,chẳng nghe nói đến hai tiếng phúc thần.”(11). Thay vào đó, các thiên thần của các văn hoábản địa Chiêm Thành và Chân Lạp đãđược chấp nhận và đưa vào hệthống thần linh của Miền Nam. Trong số nầyđặc biệt nhứt là Thánh Mẫu Pô Nagar củangười Chiêm Thành đã được “Các vuatriều Nguyển ban sắc phong là: Hoàng huệ, phổtế, linh cảm, diệu thông, mặc tướng, tranghuy, Dực bảo, trung hưng, Thiên-Y-A-Na Diễn NgọcPhi thượng đẳng thần ” (12). Vịnữ thần nầy được người Việtgọi dưới nhiều tên khác nhau như Thiên Y A Na,Diễn Ngọc Phi, Vân Hương Thánh Mẫu, ChúaNgọc, Chúa Tiên. Đền thờ của vị ThánhMẫu nầy tập trung nhiều nhứt trong tỉnhKhánh Hòa, phần lớn được giữ gìn bởicả người   Chàmlẩn người Việt. Ngôi đền lớn nhứtthờ vị nữ thần nầy là Tháp Bà ở Nha Trangvẫn còn bia đá dựng vào năm Tự Đứcthứ 9 (1856) trên đó có khắc bài bia ký ghi lạithần tích của Bà do chính cụ Phan Thanh Giản viếtra (13). Vào đến ĐBĐNCL, dân chúng thuần Việtđã phổ biến sự thờ phượng vịThánh Mẫu nầy vào tận đơn vị gia đình,với bài vị và bàn thờ đơn giản trong nhà vàgọi là Bà Chúa Ngọc, Chúa Tiên. Hiện tượngthờ Thánh Mẫu nầy ta còn tìm thấy ở rấtnhiều địa phương trong vùng ĐBĐNCL,như Bà Đen ở Miền Đông và Bà Chúa Xứ ởMiền Tây. ‘Tục lệ thờ Bà phổ biếnở Nam Bộ lấy núi Bà Đen ở Tây Ninh làm trung tâmđiểm; điện thờ Linh Sơn thánh mẫu, bênsườn ngọn núi cao nhất Nam Bộ.’ (14) Tênmới nầy của Thánh Mẫu là do việc triềuđình nhà Nguyễn đã ban cho núi Bà Đen tên chữ làLinh Sơn vào năm Tự Đức thứ ba (1850) (15).

 

Nhiên Thần

Trong khối Nhiên Thần, sắc thái riêng biệtcủa tín ngưỡng dân gian Miền Nam là thờ ThầnNgũ Hành (trong đó Thổ Thần—mà ngườiMiền Nam thường gọi là Thổ Địa hay nômna hơn nữa là Ông Địa--chiếm địavị quan trọng nhứt), Thần Hổ và Thần CáVoi.

Đối với Thần Ngũ Hành(Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ) thông thường thìtất cả được thờ chung, nhưng cũngcó nơi thờ riêng hoặc đặt trọng tâm vàomột vị, thí dụ “như vùng nào thườngxảy ra hỏa hoạn thì hành Hỏa đượclập miếu thờ, vùng sông nước lại thờhành Thủy, vùng trồng lúa thì hành Thổ đượctôn vinh ”16). Vùng ĐBĐNCL là một vùng trồng lúanên Thổ Thần được đặc biệt tônvinh. Tuy nhiên, do tâm thức mới, người nông dânMiền Nam đã vượt qua cái khuôn khổ cứngngắt của tập tục thờ phượng ởĐàng Ngoài, và tiếp cận với Thổ Thầnmột cách “thân tình” hơn rất nhiều.Họ mạnh dạn gọi Thổ Thần là ÔngĐịa, và đưa vào thờ trong nhà (tuy cũng có làngvẫn còn có Miếu Thổ Địa hoặc riêng rẽhoặc là một phần của Đình làng). Họ tựđộng “xuống cấp” Thổ Thần,không còn nghĩ rằng Thổ Thần là một vịThần chịu trách nhiệm cho cả địaphương nữa, mà xem như là một gia thần,chỉ lo bảo vệ cho nhà cửa của mình mà thôi. Bànthờ Ông Địa thật khiêm tốn, để ngaydưới đất và gần cửa ra vào. Tuy nhiênsự tôn kính và tin tưởng đối với ÔngĐịa thì vẫn tuyệt đối. Hàng ngàyngười ta đều có lễ vật dâng cúng ÔngĐịa, khi thì nải chuối, khi thì phong bánh. Hểmất mát tài vật gì trong nhà thì người dânđều “vái Ông Địa” để ÔngĐịa chỉ cho tìm ra vật bị mất đó.Ỡ một vài nơi người dân còn nhờ ÔngĐịa trong việc cầu mưa, và trong việcnầy, thậm chí người ta còn “hành hạ”Ông Địa cho tới khi nào được vừa ýmới thôi (17).

Thần Hổ cũng là một nhiên thầnđược thờ phượng tại rấtnhiều địa phương trong ĐBĐNCL. “Cóthể nói, trang sử thứ nhất của vùng Sài Gòn – GiaĐịnh do người Việt, Khmer, Chăm, Hoaviết nên bắt đầu từ những ngày đánhcọp để tồn tại” (18). Khi khai phá vùngđất mênh mông nhưng hoang vu của vùng Đồng Naicũng như những đầm lầy vô tận củavùng cực Nam, người lưu dân Đàng Trong khôngnhững phải đương đầu vớinhững khó khăn với cuộc đất mà còn phảiđối phó với nhiều loại thú dữ mà cọplà mối đe dọa thường xuyên nhứt. Tâm lýsợ cọp (mà cũng quyết tâm đánh thắng nó)đã đưa đến việc thờ Thần Hổtrong phần lớn đình làng ở Miền Nam. Ngày naychúng ta vẫn còn có thể gặp rất nhiều ngôiđình ở Miền Nam có tấm bình phong trướccổng có đấp hình cọp, mà dân chúng thườnggọi là bia Ông Hổ.

Một nhiên thần nữa cũng đượcthờ phượng trong các đình làng ở Miền Nam,phần lớn là tại các làng đánh cá dọc theo bờbiển từ Miền Trung trở vào trong Nam, là Thần CáVoi. Ở Miền Trung, thần Cá Voi thườngđược gọi là Nam Hải Cự Tộc NgọcLân Tôn Thần, trong sắc phong thường ghi là “NamHải cự tộc ngọc lân, gia tăng từ tế, chươnglinh, trợ tín, trừng phạm, phu ứng, Dực bảotrung hưng hoằng hợp, thượng đẳngthần ” (19). Vào trong Nam, Thần Cá Voi thườngđược sắc phong là “Nam Hải đạitướng quân, mà ngư dân rất sung bái ” (20). Lý dongười Miền Nam thờ phượng Thần Cá Voilà hoàn toàn ngược lại với lý do thờ ThầnHổ. Nông dân thờ Cọp vì sợ nó; nhưng ngư dânthờ Cá Voi vì tin rằng Cá Voi cứu mạng họ khi lâmnguy người biển. Hài cốt cá voi đượcbảo quản rất kỷ lưởng tại cácđình.

 

Nhân Thần

Trong khối Nhân Thần, các nhân vật lịch sửcó công lao trong việc khai phá Miền Nam chiếm mộtsố lượng rất lớn. Trong số nầy,Chưởng Cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn HữuCảnh, Chưởng Cơ Thoại Ngọc HầuNguyễn Văn Thoại đứng hàng đầu. RiêngĐức Chưởng Cơ Lễ Thành Hầu hiện cóđền thờ tại rất nhiều địaphương như: Quảng Bình, Biên Hòa, Cần Thơ,Định Tường, Châu Đốc, Long Xuyên, Sài Gòn(trong Đình Minh Hương Gia Thạnh củangười Minh Hương).21 Bên cạnh nhóm nhân vật cócông lớn trong việc khai phá Miền Nam là nhóm các vịkhai quốc công thần của triều Nguyễn, nhưĐức Tả Quân Lê Văn Duyệt (ở xã Bình Hòa, GiaĐịnh, mặc dù không có sắc phong của triềuđình), Đức Tiền Quân Nguyễn HuỳnhĐức (đại thần duy nhứt từng làmTổng Trấn cả Bắc Thành, thay thế NguyểnVăn Thành, và Gia Định Thành, thay thế ĐứcTả Quân Lê Văn Duyệt, thờ ở đình ƯuLong, quận 8, Sài Gòn), Võ Di Nguy (thờ ở đình PhúNhuận, Sài Gòn) vv. Kế tiếp là các anh hùng chống Phápnhư Trương Định (Gò Công), Nguyễn TrungTrực (Rạch Giá), Phan Thanh Giản (Vĩnh Long), vv. Ngoàira rất nhiều làng ở Miền Nam cũng thờcả những vị có công lập làng, xã, thườngđược gọi là Tiền Hiền, Hậu Hiền,Khai Canh, Khai Khẩn. Tuyệt đối ở Miền Namkhông có tục thờ các tà thần (thí dụ như dâmthần, trần ăn trộm) như ở MiềnBắc. Ở đây cũng nên ghi nhận đóng gópcủa người Minh Hương trong việc thờ Ông,thờ Bà của dân chúng Miền Nam. Ông ở đây là QuanVân Trường, hay Quan Công, một trong ba nhân vật“Đào Viên kết nghĩa” của truyện Tam Quốc.Ngài được người Hoa thờ phượng vìNgài là biểu tượng tối cao của các đứctính “Trung Can Nghĩa Khí.” Ngài thường đượctôn xưng là Quan Thánh Đế Quân. Bà ở đây là Bà ThiênHậu, “một nhân vật huyền thoại tronglịch sử Trung Hoa dưới triềuTống…thường hiển hiện cứu giúp nhữngngười bị đắm thuyền…Đời Thanh, Bàđược phong là “Thiên Hậu thánh mẫu…” (22).Hiện nay tại Miền Nam rất nhiều địaphương, đặc biệt là những nơi cónhiều người Hoa, người Minh Hương,vẫn tiếp tục việc thờ phượng haivị Nhơn Thần nầy trong các cơ sở tôn giáogọi là Chùa Ông, Chùa Bà. Riêng tại Sài Gòn hiện nay cókhoảng 30 ngôi chùa của người Hoa, trong đó có 3ngôi Chùa Bà. Riêng Quan Công hay Quan Thánh Đế Quân cònđược thờ trong một số Đình. Ngoài racũng có một số Chùa Ông được xây dựngđể thờ “Ông Bổn.” Ông Bổn, hay BổnĐầu Công, là danh xưng người Hoa sử dụngđể chỉ vị Thái Giám tên là Trịnh Hòa đãđược vua nhà Minh (niên hiệu Vĩnh Lạc,1403-1424) phái chỉ huy một đoàn thương thuyềnlớn du hành khắp vùng Đông Nam Á để giao thươngcũng như truyền bá văn hóa Trung Hoa (23).

 

Định Chế Hóa Hệ Thống Thần Linh

Vua Gia Long, sau khi xác lập được quyền uytuyệt đối trên toàn cỏi giang sơn đãthống nhứt, vẫn không quên những năm tháng ởđất Gia Định của mình, đầy truân chuyên,gian khổ nhưng luôn luôn được Thần Linh chechở, giúp cho Ngài luôn thoát được những cuộcvây hãm của quân tướng Tây Sơn. Năm thứ baniên hiệu Gia Long (1804), Ngài quyết định phongtặng “bách thần” và chia Thành Hoàng ra làm ba hạng:Thượng Đẳng, Trung Đẳng và Hạ Đẳng.Nhà vua cũng quy định các loại chữ dùngđể phong tặng cho bách thần gọi là mỹtự, thí dụ “Thác Cảnh” dùng làm mỹ tự choThượng Đẳng Thần, “Quang Ý” dùng cho TrungĐẳng Thần, và “Đoan Túc” cho Hạ ĐẳngThần. Minh Mạng là vị vua đầu tiên đã cấpsắc phong cho hệ thống thần linh của MiềnNam. Ngày nay ta còn thấy được sắc phong thầnniên hiệu Minh Mạng thứ sáu (1825) tại đình LýNhơn, thuộc Quận 4, Sài Gòn (24). Năm Minh Mạngthứ 20 (1840), nhân lễ Ngũ Tuần Đại KhánhTiết của Ngài, nhà vua cho tổ chức lễ ĐàmÂn, đồng loạt phong tặng cho bách thần, nhưngchưa kịp làm sắc phong cho bách thần thì Ngài đãbăng hà. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi và vào nămThiệu Trị thứ năm (1845) bắt đầu bansắc thần. Đời vua Tự Đức, nămTự Đức thứ 2 (1850), nhà vua lại quyđịnh thêm một số mỹ tự, và đếnnăm Tự Đức thứ 5 (1852) nhà vua lạiđồng loạt cấp sắc phong thần một lầnnữa (25). Hiện nay, đa số sắc thần ởcác đình Miền Nam đều mang niên hiệu nầy.

 

Cơ Sở Vật Chất : Đình Miền Nam

Cơ sở vật chất quan trọng nhứtđể thờ phượng hệ thống thần linhở ĐBĐNCL nêu trên là Đình. Như phần trênđã có trình bày, người lưu dân Đàng Trong điđến đâu là lập làng và xây đình ở đó. “Xâydựng đình làng là nhu cầu tinh thần, có đình thìmới tạo được thế đứng, gắnbó vào cộng đồng dân tộc và càn khôn vũ trụ,bằng không thì chỉ là lục bình trôi sông, viên gạchrời rạc, một dạng “lưu dân tập thể ”,mặc dầu làng lắm gạo nhiều tiền”(26).

Hiện nay tuy chưa có một thống kê chính thứcvề con số Đình của Miền Nam nhưng tacũng có thể suy đoán được phải lênđến hàng ngàn vì chỉ riêng tại Sài Gòn, theo sáchĐình ỞThành Phố Hồ Chí Minh của hai tác giảHồ Tường và Nguyễn Hữu Thế, đã cótất cả là 300 ngôi đình, chia ra như sau:

• Quận 1 : 11

• Quận 2 : 16

• Quận 3 : 3

• Quận 4 : 4

• Quận 5 : 9

• Quận 6 : 9

• Quận 7 : 3

• Quận 8 : 21

• Quận 9 : 20

• Quận 10 : 4

• Quận 11 : 5

• Quận 12 : 16

• Quận Phú Nhuận : 1

• Quận Gò Vấp : 4

• Quận Thủ Đức : 15

• Quận Bình Thạnh : 7

• Quận Tân Bình : 8

• Quận Tân Phú : 4

• Huyện Hóc Môn : 21

• Huyện Cần Giờ : 8

• Huyện Nhà Bè : 18

• Huyện Củ Chi : 32

• Huyện Bình Chánh : 51

• Quận Bình Tân : 10 (27)

 

Đình là một cơ sở vật chất đóngcùng một lúc hai vai trò trong sinh hoạt tinh thần củacộng đồng. Đình là nơi hội họp củadân làng, làm cái gạch nối cho tất cả mọingười trong làng. Đình cũng là nơi thờphượng vị Thành Hoàng Bổn Cảnh cùng nhiềuthần linh khác, làm cái gạch nối giữa conngười và cỏi thiêng liêng. Với hai vai trò hếtsức quan trọng nầy, Đình hiển nhiên phảiđược thiết kế và xây dựng như làkiến trúc quan trọng nhứt, và đẹp nhứt tronglàng. Trong việc thiết kế và xây dựng Đình,người Miền Nam cũng chứng tỏ không quá câunệ vào khuôn khổ cứng ngắt của truyềnthống.

Để tạo nên sự nổi bật củaĐình trong tổng thể của làng, việc chọnlựa vị trí của Đình là mối quan tâm đầutiên của dân làng. Do truyền thống văn hóa Việt,dân chúng vùng ĐBĐNCL cũng có lưu ý về thuậtphong thủy khi chọn vị trí cho ngôi Đình, làm sao chohội tụ khá đầy đủ các đặc tínhđắc địa như “tiền án hậuchẩm, tả phù hữu bật, thủy tụ sơntriều, tiền tam thai hậu thất tinh…” (28). Tuynhiên, do địa hình tương đối bằngphẳng, ít đồi núi của Miền Nam, mối quan tâmvề phong thủy nầy cũng đựợc châmchước một phần nào. Lại nữa, ởMiền Nam do sự hiện diện của hệ thốngkinh rạch chằng chịt, Đình thườngđược xây cất trên những khu đất cao ráo,“nơi có phong cảnh đẹp. Đặc biệtlà phải ở ngả ba, ngả tư sông để dânlàng tới lui thuận lợi ” (29). Về sau, trongthời Pháp thuộc, nhiều đường bộđược làm ra, cũng như một số kinhrạch bị lấp đi để làm đường bộthì một số Đình cũng phải thay đổi chínhdiện cho phù hợp với hoàn cảnh mới.

Sau khi chọn được vị trí tốt rồithì hướng chính của Đình cũng cầnđược quan tâm. Ở Miền Bắc, Đìnhthường được xây hướng về hướngNam vì về mặt lý thuyết, theo Kinh Dịch,hướng Nam, biểu tượng bởi quẻ Ly, làLửa, là Dương (2 Dương, 1 Âm), tượngtrưng cho cái tốt, cái lành. Về mặt thựctiển, hướng Nam là “hướng gió mát mẻvào mùa hè, tránh gió rét vào mùa đông” (30). Ngay cả cácvua nhà Nguyễn, khi xây dựng kinh đô Huế, tấtcả các kiến trúc quan trọng như Hoàng Thành,Đại Nội, Kỳ Đài, Ngọ Môn, Đàn Nam Giao,và cả lăng tẩm, cũng đều có hướngchính là hướng Nam. Thiên Thụ Lăng, tức làlăng Gia Long, “xây về hướng Nam, khởi côngnăm Gia Long thứ 13 (1814) và hoàn thành sau khi vua băng hà(1920) ” (31). Tuy nhiên, người dân Miền Nam,mặc dù rất tôn trọng các Chúa và Vua nhà Nguyễn,đã không hoàn toàn lệ thuộc vào truyền thốngchọn hướng Nam nầy. Ở Miền Nam, nhưtrên đã nói, Đình thường được xây trên cáckhu đất cao ráo, cạnh bờ kinh rạch, nên phầnnhiều hướng theo dòng chảy của các kinh rạchnầy, chớ không nhứt thiết phải theo hướngNam như truyền thống ở Miền Bắc. Và trênthực tế, người dân Miền Nam lưu tâmnhiều hơn đến chuyện tránh hướngcủa gió mùa và mưa nắng hắt tạt vào bên trongĐình. Vì thế một số Đình trong Miền Namđã chọn hướng Đông hoặc Đông Nam, thay vìhướng chánh Nam như truyền thống.

Về phương diện cây cảnh chung quanh Đình,ở Miền Bắc, người ta thường trồngcác loại cây có tán rộng như cây đa, cây gạo, câysi. Trái lại, ở Miền Nam, chung quanh Đìnhthường có trồng các loại cây có thân cao vút, dángđẹp và tán gọn như cây dương, cây sao, câydầu. Các loại cây nầy được trồngđể làm “một điểm nhấn cho cảnhquan ngôi đình nhằm cuốn hút sự chú ý của kháchtừ xa ” (32).

Về mặt bố cục, Đình của Miền Nam,trên tổng thể, cũng giống như các Đình ởMiền Bắc, với kiến trúc mặt bằng hoặctheo hình chử Công hoặc theo hình chữ Môn. Tuy nhiên cáchsắp xếp các bộ phận kiến trúc thì có nhiềukhác biệt so với Đình ở Miền Bắc, thậmchí còn có những phần kiến trúc mà Đình ởMiền Bắc hoàn toàn không có. Một cách tổng quát,bố cục một ngôi đình ở Miền Nam, từtrước ra sau, thường gồm những bộphận kiến trúc sau đây:

• Cổng Đình, hay còn gọi là Nghi Môn.

• Sân Đình, ngay ở giữa là bình phong có đấphình cọp, gọi là Bia Ông Hổ.

• Hai bên sân Đình, là các Miếu nhỏ hình vuông thờcác thần phụ của Đình, thường là thờBạch Hổ, Thần Ngũ Hành, Cửu Thiên HuyểnNữ, Thổ Thần, Ông Tà (thần Neakta củangười Khmer), vv...

• Nhà Vỏ Ca, một ngôi nhà trống, dùng làm chổtập hợp những chức sắc có nhiệm vụtế lễ, và cũng là nơi diễn tuồng hátbội trong các dịp lễ hội.

• Nhà Vỏ Quy, thường dùng làm nơi tụ họpcho dân chúng trước khi vào lể bái ở ChánhĐiện.

• Chánh Điện, nơi thờ thần Thành Hoàngcủa làng và các thần phụ.

• Nhà Túc, hay Nhà Khách, nơi khách sau khi lễ thần xongtụ tập lại đây để uống nước,hàn huyên; loại nhà nầy có hai cách sắp đặt;một cách là xây ngay bên sau Chánh Điện; cách thứ hai làxây thành hai căn dọc theo hai bên hông của ChánhĐiện, trong trường hợp nầy thìđược gọi là Đông Lang (bên phải) dành chonữ giới, và Tây Lang (bên trái) dành cho nam giới.

• Nhà Trù, thường xây ngay sau Chánh Điện, bêncạnh Nhà Túc, chính là nhà bếp, nơi chuẩn bịthức ăn để cúng thần cũng nhưđể đãi khách.

• Nhà Cối, bên cạnh Nhà Trù, chính là kho đểchứa vật dụng của Đình (33).

Nhà Vỏ Ca là một ‘kiến trúc đặcbiệt chỉ tồn tại các đình NamBộ (34). Đây là do tập tục riêng củaMiền Nam là mổi khi cúng Kỳ Yên thì Đình luôn luôn cótổ chức hát bội trước để cúngthần, sau để dân làng cùng xem. Tập tục nầyxuất phát từ chủ trương nâng đở và pháthuy hát bội của Đức Tả Quân Lê VănDuyệt khi Ngài làm Tổng Trấn Gia Định Thành.

Trong Chánh Điện, ở giữa và trong cùng là bànthờ thần. “Đình làng Nam Bộ không bao giờthờ tượng mà chỉ thờ một chữ“thần” (35). Và thần ở đây là thần ThànhHoàng Bổn Cảnh, một danh xưng gọi chung cónghĩa là “Thành Hoàng của vùng đất nầy”, khôngchỉ định một danh tánh cụ thể nào cả.Chính vì vậy mà Đình Miền Nam thường không cóthờ thần tượng như vừa nói ở trên.Trong số 300 ngôi đình ở Sài Gòn có đến 281đình (tức 93.6%) thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh làchánh. Sắc phong thần được các vị chứcsắc trong Đình giữ gìn rất kỷ lưởng,thậm chí có khi rất bí mật vì sợ bị đánhcắp. Mổi năm cử hành một lần việclấy tờ sắc đem ra phơi để tránh bịẩm mốc, mối mọt; đó cũng là dịp cho dânlàng được thấy tờ sắc phong. Nói chung, cácsắc phong đều giống nhau với nhữngđặc tính như sau: 

• Tờ giấy kim tiên tốt, dày, màu vàng, có in chìmnền rồng ẩn trong mây, chung quanh có khung hoa vănđẹp.

• Khổ giấy: dài 1,2 đến 1,5 mét; rộng 0,5đến 0,6 mét.

• Trên tờ sắc có từ 5 đến 11 hàng dọcchữ Nho chép từ phải qua trái; nội dung các dòngchữ cho biết tên Thần, các mỹ tự cũ vàmới của vua ban, sự linh hiển của Thần,trách nhiệm bảo vệ dân của Thần, và tráchnhiệm thờ cùng Thần của dân; dòng cuối cùngđề niên hiệu, tháng và ngày cấp sắc phong;ấn hình vuông của vua màu son đỏ đượcđóng chồng lên dòng chữ đề niên hiệunầy (36).

Ngoài việc thờ vị Thần chánh (thường làThành Hoàng Bổn Cảnh), các Đình còn thờ rấtnhiều vị thần linh phụ khác. Do đó, hai bên bànthờ chánh còn có thêm từ 4 đến 8 bàn thờphụ. Hai bàn thờ sát ngay hai bên cạnh của bànthờ chánh, gọi là Tả ban và Hữu ban, là đểthờ các vị thần hộ vệ cho Thành Hoàng BổnCảnh hay vị Thần chánh. Các bàn thờ còn lại làđể thờ các vị thần linh khác, và các vị Tiềnhiền, Hậu hiền, vv...

Chánh Điện là khu vực quan trọng nhứt trongĐình nên thường tập trung những phần trangtrí đẹp nhứt như bao lam, hoành phi, câu đối;tất cả đều được chạm trổ vàsơn son thếp vàng rực rở. Hai bên bàn hương ánthường có đôi hạc cao lớn (thườngbằng đồng) đứng trên lưng rùa. Cạnhđó là lọng tán và lỗ bộ. Lỗ bộ là cáccặp (thường nhứt là 8 cặp) binh khí, có thểbằng gỗ hoặc bằng thau, như giáo, kích, phủviệt (búa), mác, đinh ba, xà mâu, vv... Đặc biệt “Đìnhmiếu Nam Bộ không sử dụng các loại cờnhư ở miền Trung, miền Bắc ” (37).

 

Kết Luận

Người Việt vùng ĐBĐNCL, trong khi vẫncố gắng bảo tồn nền văn hóa Việt doông cha đã mang từ Đàng Trong vào trong các thế kỷ17 và 18, do biến đổi tâm thức dưới ảnhhưởng của địa lý và các nền văn hoábản địa mà họ tiếp cận, đã tạo ranhững sắc thái riêng biệt trong tín ngưỡng dângian của họ. Hệ thống thần linh của vùngĐBĐNCL thể hiện rõ nét sự gắn bó vàobiến chuyển lịch sử của Đàng Trong qua cácgiai đoạn Chúa Nguyễn và Nhà Nguyễn. Đình làng,cơ sở vật chất dùng làm nơi thờphượng hệ thồng thần linh nầy, cũngmang nhiều dáng vẻ riêng biệt của Miền Nam,với rất nhiều yếu tố hoàn toàn mới, khôngtìm thấy trong các ngôi đình ở Miền Bắc.

 

GHI CHÚ:

1. Nguyễn Thanh Liêm, Những Biến Đổi TrongVăn Hóa Việt Nam, Tập San Nghiên Cứu Văn HóaĐồng Nai Cửu Long, số 1, tr. 13-14. Xinđọc hết cả bài báo (tr. 9-20) để có cái nhìntoàn bộ về những biến đổi văn hóaViệt trong vùng ĐBĐNCL.

2. Châu Đạt Quan. Chân Lạp Phong Thổ Ký., LêHương dịch. Saìgòn : Nhà Xuất Bản Kỷ NguyênMới, 1973. Tr. 80.

3. Hồ Tường (chủ biên), Nguyễn HữuThế. Đình Ở Thành Phố Hồ Chí Minh.TPHCM : Nhà Xuất Bản Trẻ, 2005. Tr. 10.

4. Đây là cách nói tắt của người MiềnNam để chỉ 2 câu thơ chữ Hán: “Kiếnnghĩa bầt vi vô dõng giả, Lâm nguy bất cứumạc anh hùng”, có nghĩa là: “Thấy việc nghĩa màkhông làm thì không phải là người có can đãm; Thấykẻ khác gặp chuyện nguy hiểm mà không cứungười ta thì không phải là người anh hùng.”

5. Lưu Vĩnh Khương, Vai Trò Người MinhHương Trong Cuộc Mở Đất Miền Nam, TậpSan Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai Cửu Long,số 3 (Tháng 1/2006), tr. 110. Xin đọc hết cả bàibáo để có cái nhìn chi tiết hơn về nhữngđóng góp của người Minh Hương trong việckhai phá Miền Nam.

6. Lâm Vĩnh Thế, Đình Minh Hương GiaThạnh, Thế Kỷ 21, số 155 (Tháng 3/2002), tr.48-54.

7. Hội Đồng Trị Sự Nguyễn PhúcTộc. Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả, ThũyTổ Phả, Vương Phả, Đế Phả.Huế : Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, 1995. Tr. 149.

8. Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền. Lễ ThànhHầu Nguyễn Hữu Cảnh, 1650-1700, Với CôngCuộc Khai Sáng Miền Nam Nước Việt CuốiThế Kỷ 17. Tái bản lần thứ hai. TPHCM : NhàXuất Bản Văn Học, 1997. tr. 88-89.

9. Trước đây nhiều người Miền Namvẫn tưởng là chữ “kiển” là để kiêng têncủa Đông Cung Cảnh, hoàng trưởng tử củaVua Gia Long; điều nầy không đúng vì chữ“kiển” đã có từ trước khi Đông Cung Cảnhra đời (năm Canh Tý, 1780) rất lâu.

10. Huỳnh Đình Kết. Tục Thờ Thầnở Huế. Huế : Nhà Xuất Bản Thuận Hóa,1998. Tr. 17.

11. Sơn Nam. Đình Miếu Và Lễ Hội Dân Gian.Tái bản. Đồng Tháp : Nhà Xuất Bản ĐồngTháp, 1994. Tr. 33.

12. Huỳnh Đình Kết, sđd, tr. 23.

13. Tạ Chí Đại Trường. Thần,Người Và Đất Việt. Westminster, Calif. : NhàXuất Bản Văn Nghệ, 1989. Tr. 259.

14. Sơn Nam, sđd, tr. 68.

15. Sơn Nam, sđd, tr. 69.

16. Huỳnh Đình Kết, sđd, tr. 29.

17. Tạ Chí Đại Trường, sđd, tr. 289-294.

18. Hồ Tường (chủ biên), Nguyễn HữuThế, sđd, tr. 41-42.

19. Huỳnh Đình Kết, sđd, tr. 41.

20. Sơn Nam, sđd, tr. 125.

21. Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền, sđd,“Liệt kê đầy đủ hình ảnh, chú thích ởcác tỉnh có Đền thờ Thượng ĐẳngThần LTH Nguyễn Hữu Cảnh”, tr. 126-177.

22. Phan An, Chùa Bà Chợ Lớn, trong Sài Gòn Xưa &Nay. Nhà Xuất Bản Trè, 1998. tr. 263-264.

23. Vương Hồng Sễn. Sài-Gòn Năm Xưa.Ấn bản lần thứ hai. Sài Gòn : Nhà Xuất BảnKhai Trí, 1968, tr. 194-195.

24. Hồ Tường (chủ biên), Nguyễn HữuThế, sđd, tr. 101.

25. Trương Ngọc Tường, Đình MiếuỞ Đồng Bằng Sông Cửu Long, phần PhụLục trong Sơn Nam, sđd, tr. 159-161.

26. Sơn Nam, sđd, tr. 32.

27. Hồ Tường (chủ biên), Nguyễn HữuThế, sđd, Danh Sách Đình Thành Phố Hồ Chí Minh, tr.276-307.

28. Hồ Tường (chủ biên), Nguyễn HữuThế, sđd, tr. 27.

29. Huỳnh Ngọc Trảng, Trương NgọcTường, Hồ Tường. Đình Nam Bộ: TínNgưỡng Và Nghi Lễ. TPHCM : Nhà Xuất Bản TPHCM,1993. Tr. 23. 

30. Hồ Tường (chủ biên), Nguyễn HữuThế, sđd, tr. 30.

31. Thái Văn Kiểm. Cố Đô Huế : LịchSử, Cổ Tích, Thắng Cảnh. (Văn-HóaTùng-Thư). Sài Gòn : Nha Văn Hoá, Bộ Quốc Gia GiáoDục Xuất Bản, 1960. Tr. 98-99.

32. Hồ Tường (chủ biên), Nguyễn HữuThế, sđd, tr. 33.

33. Hồ Tường (chủ biên), Nguyễn HữuThế, sđd, tr. 38-53.

34. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự. ĐìnhViệt Nam= Community Hall In Vietnam. TPHCM : Nhà Xuất BảnTPHCM, 1998. Tr. 36.

35. Trương Ngọc Tường, sđd, tr. 152.

36. Hồ Tường (chủ biên), Nguyễn HữuThế, sđd, tr. 101-102.

37. Trương Ngọc Tường, sđd, tr. 155.

 

Thư Tịch Các Tài Liệu Tham Khảo

1. Châu Đạt Quan. Chân Lạp Phong Thổ Ký., LêHương dịch. Saìgòn : Nhà Xuất Bản Kỷ NguyênMới, 1973.

2. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự. ĐìnhViệt Nam= Community Hall In Vietnam. TPHCM : Nhà Xuất BảnTPHCM, 1998.

3. Hồ Tường (chủ biên), Nguyễn HữuThế. Đình Ở Thành Phố Hồ Chí Minh. TPHCM :Nhà Xuất Bản Trẻ, 2005.

4. Hội Đồng Trị Sự Nguyễn PhúcTộc. Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả, ThũyTổ Phả, Vương Phả, Đế Phả.Huế : Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, 1995.

5. Huỳnh Đình Kết. Tục Thờ ThầnỞ Huế. Huế : Nhà Xuất Bản Thuận Hóa,1998.

6. Huỳnh Ngọc Trảng, Trương NgọcTường, Hồ Tường. Đình Nam Bộ: TínNgưỡng Và Nghi Lễ. TPHCM : Nhà Xuất Bản TPHCM,1993.

7. Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền. Lễ ThànhHầu Nguyễn Hữu Cảnh, 1650-1700, Với CôngCuộc Khai Sáng Miền Nam Nước Việt CuốiThế Kỷ 17. Tái bản lần thứ hai. TPHCM : NhàXuất Bản Văn Học, 1997.

8. Sài Gòn Xưa & Nay. TPHCM : Nhà Xuất BảnTrẻ, 1998.

9. Sơn Nam. Đình Miếu Và Lễ Hội Dân Gian.Tái bản. Đồng Tháp : Nhà Xuất Bản ĐồngTháp, 1994.

10. Tạ Chí Đại Trường. Thần,Người Và Đất Việt. Westminster, Calif. : NhàXuất Bản Văn Nghệ, 1989.

11. Tập San Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng NaiCửu Long. Santa Ana, Calif. : Tả Quân Lê Văn DuyệtFoundation, Số 1 và số 3.

12. Thái Văn Kiểm. Cố Đô Huế: LịchSử, Cổ Tích, Thắng Cảnh. (Văn-HóaTùng-Thư). Sài Gòn : Nha Văn Hoá, Bộ Quốc Gia GiáoDục Xuất Bản, 1960.

13. Vương Hồng Sển. Sài-Gòn Năm Xưa.Sài Gòn : Nhà Xuất Bản Khai Trí, 1968.