Tìm hiểu lệnh triệt thoái Quân Ðoàn II tháng 3-1975

          Có thể nói lực lượng quânsự của Việt Nam Cộng Hòa đã trưởng thành vượt bậc trong thời giancủa nền Ðệ Nhị Cộng Hòa.  Khi đượcthành lập vào năm 1950, với quân số chỉ vào khoảng 60.000, lực lượngnày mang tên là Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam.  Trong thời gian Ðệ Nhứt Cộng Hòa(1955-1963), lực lượng được cải danh thành Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa.  Từ 1965 trở đi, lực lượng quân sự nàychính thức mang tên Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH), và vào năm1970, với sự trợ giúp rất tích cực của Hoa Kỳ, đã có một quân sốlên đến trên 1 triệu người, với đầy đủ tất cả các quân binh chủngtrang bị rất tối tân, gần như rập khuôn theo quân đội Mỹ, để có thểđương đầu với cuộc chiến tranh xâm lăng do Bắc Việt phát động với việntrợ quân sự rất lớn lao của khối Cộng Sản mà quan trọng nhứt là từLiên Xô và Trung Cộng.  QLVNCH trởthành một niềm tự hào của Miền Nam nhưng cũng trở thành một con daohai lưởi cho sự an nguy của Miền Nam. Nó đã có thể giúp VNCH đương đầu một cách hiệu quả với nhữngsư đoàn tinh nhuệ trang bị vũ khí hiện đại của phe Cộng sản từ MiềnBắc xâm nhập vào trong hai cuộc Tổng Tấn Công vào năm 1968 và 1972,nhưng cũng chính vì không còn nhận được đầy đủ quân viện để chi chohoạt động của nó mà Miền Nam đã sụp đổ một cách thảm hại trongmột thời gian ngắn kỷ lục, chỉ có 44 ngày.  

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là vị Tổng Thống hội đủ điềukiện nhứt để đảm nhận vai trò hiến-định Tổng Tư Lệnh tối cao củaQLVNCH (Ðiều 60, Hiến Pháp 1967), với những lý do sau đây:

 

·      Ông là một Tướng lãnh caocấp của QLVNCH, mang cấp bậc Trung Tướng 3 sao

·       So với phần đông các tướng lãnh cùngthời, không những ông có thâm niên hơn họ (ngay cả đối với Ðại TướngTổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên, thăng cấp Thiếu Tướng ngày 3-3-1964,trong khi ông Thiệu đã thăng cấp Thiếu Tướng từ ngày 2-11-1963), mà,trong một số trường hợp, ông còn từng là cấp chỉ huy trực tiếp củahọ (như các vị Trung Tướng Ðặng Văn Quang, Nguyễn Bảo Trị, và VĩnhLộc)

·      Ông đã từng chỉ huy cácđơn vị quân đội ở nhiều cấp, kể cả Tư Lệnh Sư Ðoàn (Sư Ðoàn 5 BộBinh) và Tư Lệnh Quân Ðoàn (Quân Ðoàn IV)

          Từ năm 1969 trở đi,Tổng Thống Thiệu, lấy tư cách Tổng Tư Lệnh tối cao của QLVNCH theoHiến Pháp, nắm hết quyền hành về quân sự, ra lệnh trực tiếp cho cácvị tư lệnh của các quân đoàn và các đại đơn vị, không thông qua BộTổng Tham Mưu nữa.1 Do đó người viết nghĩ rằng ông phảichịu một phần rất lớn trách nhiệm về sự thất bại và sụp đổ vềquân sự của VNCH vào năm 1975.

          Trước hết, để có thểhiểu rõ động cơ của Tổng Thống Thiệu trong những quyết định quantrọng về mặt quân sự trong thời gian cuối 1974 và đầu 1975 đưa đến sựthất trận của Miền Nam, chúng ta phải tìm hiểu rõ bản chất củacuộc chiến, giới hạn của nó, và chiến lược mà VNCH sử dụng để đốiphó với cuộc chiến.

          Về bản chất, đối vớiVNCH, đây là một cuộc chiến tranh xâm lược mà Việt Nam Dân Chủ CộngHòa (VNDCCH, tức Bắc Việt) là nước gây chiến.  VNCH, tức Nam Việt Nam, là nạn nhân vớilãnh thổ bị xâm phạm.  Như vậy cuộcchiến tranh này, đối với VNCH, là một cuộc chiến tranh tự vệ.  Hoa Kỳ và các nước Ðồng Minh (Ðại Hàn,Thái Lan, Phi Luật Tân, Úc, Tân Tây Lan) mang quân sang Việt Nam tham chiếnlà để giúp VNCH trong việc tự vệ, chống lại cuộc xâm lược củaVNDCCH.  Về giới hạn của cuộcchiến, để tránh mở rộng cuộc chiến và tạo ra cái cớ chính đáng choTrung Cộng có thể mang quân vào Bắc Việt (như trong Chiến tranh TriềuTiên hồi đầu thập niên 1950), Hoa Kỳ đã không ủng hộ chủ trương BắcTiến của VNCH.  Do đó, về chiếnlược, trong suốt thời gian gần 20 năm của cuộc chiến, VNCH luôn luôn ởvào thế thụ động với chiến lược tổng quát là phòng ngự.  QLVNCH phải dàn trãi ra khắp nơi, từ vĩtuyến 17 trở vào Nam, để bảo vệ lãnh thổ.  Toàn bộ lãnh thổ VNCH được chia thành 4Quân Khu:

 

·       Quân Khu I: gồm 5 tỉnh ở cực Bắc làQuảng Trị, Thừa Thiên (gồm cả Huế), Quảng Nam (gồm cả Ðặc Khu ÐàNẵng), Quảng Tín, và Quảng Ngải, do Quân Ðoàn I phụ trách bảo vệlãnh thổ với lực lượng chủ lực là 3 Sư Ðoàn BB (Bộ Binh) là các SưÐoàn 1, 2, 3, cùng một số đơn vị Không Quân, Hải Quân, yểm trợ, tiếpvận, và các lực lượng Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân thuộc các Tiểu Khu(mổi tỉnh là một Tiểu Khu)

·       Quân Khu II: gồm 7 tỉnh cao nguyên làKontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Quảng Ðức, Lâm Ðồng, Tuyên Ðức, và 5tỉnh duyên hải là Bình Ðịnh, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và BìnhThuận, do Quân Ðoàn II phụ trách bảo vệ lãnh thổ với lực lượng chủlực là 2 Sư Ðoàn BB 22 và 23, cùng một số đơn vị Không Quân, Hải Quân,yểm trợ, tiếp vận, và các lực lượng Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quânthuộc các Tiểu Khu

·       Quân Khu III: gồm 11 tỉnh của Miền Ðông NamPhần là Phước Long, Bình Long, Phước Tuy, Bình Tuy, Bình Dương, TâyNinh, Hậu Nghĩa, Long An, Long Khánh, Biên Hòa, Gia Ðịnh, và Ðặc KhuVũng Tàu, do Quân Ðoàn III phụ trách bảo vệ lãnh thổ với 3 Sư ÐoànBB là 5, 18, 25, cùng một số đơn vị Không Quân, Hải Quân, yểm trợ,tiếp vận, và các lực lượng Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân thuộc cácTiểu Khu

·       Quân Khu IV: gồm 16 tỉnh của Miền Tây NamPhần là Gò Công, Kiến Tường, Ðịnh Tường, Kiến Hòa, Kiến Phong, SaÐéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Châu Ðốc, An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, KiênGiang, Chương Thiện, Bạc Liệu, An Xuyên, do Quân Ðoàn IV phụ trách bảovệ lãnh thổ với 3 Sư Ðoàn BB là 7, 9, 21, cùng một số đơn vị KhôngQuân, Hải Quân, yểm trợ, tiếp vận, và các lực lượng Ðịa Phương Quân,Nghĩa Quân thuộc các Tiểu Khu

Ngoài các đơn vị cố định chịu trách nhiệm bảo vệ lãnh thổkể trên, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH còn thành lập một số đơn vị cơ độnggọi là Lực Lượng Tổng Trừ Bị có thể được điều động đi khắp nơi khicần.  Ðó là các Sư Ðoàn Nhảy Dù,Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến, 5 Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân, và Liên Ðoàn81 Biệt Cách Dù.

Ngoài quân chủng Lục Quân với các binh chủng và đơn vị kể trên,cùng với các binh chủng khác như Thiết Giáp, Pháo Binh, Truyền Tin,Công Binh, vv, QLVNCH còn có 2 quân chủng nữa là Không Quân và Hải Quâncũng đã phát triển rất nhanh và trở thành những lực lượng rất hiệnđại với đầy đủ tất cả các loại phi cơ và tàu chiến.  Không Quân có tất cả 6 Sư Ðoàn rải ratrên khắp lãnh thổ của VNCH như sau:

 

·       Sư Ðoàn 1: đóng tại Ðà Nẵng

·       Sư Ðoàn 2: đóng tại Nha Trang

·       Sư Ðoàn 3: đóng tại Biên Hòa

·       Sư Ðoàn 4: đóng tại Cần Thơ

·       Sư Ðoàn 5: đóng tại Sài Gòn

·       Sư Ðoàn 6: đóng tại Pleiku

 Hải Quân cũng có các hạm đội và giang đoàn khắp nơi và tạimỗi Quân Khu đều có một Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng đứng đầu là mộtvị Phó Ðề Ðốc (tướng một sao; tương đương với cấp Chuẩn Tướng bênLục Quân và Không Quân).

          VNCH hoàn toàn không có khảnăng về kinh tế để có thể nuôi dưỡng và duy trì một quân lực hùnghậu và hiện đại như vậy nếu không có viện trợ của Hoa Kỳ.

          Vào đầu năm 1975, saukhi Thượng Viện Hoa Kỳ không phê chuẩn Hiệp Ðịnh Paris, Quốc Hội HoaKỳ đã thông qua War Powers Act vào ngày 7-11-1973 giới hạn tối đa quyềncủa Tổng Thống gửi quân ra nước ngoài, và Tổng Thống Nixon phải từchức vào ngày 9-8-1974 vì vụ Watergate, và được thay thế bởi ôngGerald Ford, Tổng Thống đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ không hề được dânbầu vào chức vụ đó, Tổng Thống Thiệu chắc chắn phải suy nghĩ làông không còn có thể trông đợi vào viện trợ đầy đủ về quân sự củaHoa Kỳ cho cuộc chiến tranh với một Quốc Hội hoàn toàn do phe phảnchiến và chống VNCH chiếm đa số, và vào việc Hoa Kỳ sẽ trả đủatrong trường hợp Bắc Việt vi phạm Hiệp Ðịnh Paris với vị Tổng Thốngmới hoàn toàn yếu thế đối với Quốc Hội vì không được nhân dân HoaKỳ bầu ra.  Một số sự việc quantrọng sau đây đã khiến cho ông khẳng định là ông đã nghĩ đúng.  Việc thứ nhứt là Quốc Hội Hoa Kỳ đãcắt giảm nghiêm trọng quân viện cho VNCH. Năm 1973, con số này là 2,8 tỷ đô la; năm 1974 cắt xuống còn 1tỷ, và 3 ngày sau khi Tổng Thống Nixon từ chức, vào ngày 11-8-1974,Quốc Hội cắt thêm 300 triệu nữa chỉ còn lại 700 triệu đô la mà thôi.2  Việc thứ nhì là Hoa Kỳ đã hoàn toànkhông có phản ứng gì cả sau khi xảy ra vụ phe Cộng sản vi phạm nghiêmtrọng Hiệp Ðịnh Paris trong vụ tấn công tỉnh Phước Long từ giữa tháng12-1974 và chiếm được tỉnh này vào ngày 6-1-1975.   Việc thứ ba là: “Một ngày trước khi TướngPhú tuyên bố Ban-Mê-Thuột mất, hạ viện Mỹ đã biểu quyết cắt hoàntoàn 300 triệu Mỹ kim quân viện bổ túc cho VNCH mà trước đây TổngThống Ford đã cố gắng đệ trình Quốc Hội.” 3 Vàchính cái suy nghĩ đó đã thúc đẩy ông tin rằng VNCH không còn có đủkhả năng và phương tiện để bảo vệ toàn bộ lãnh thổ của mìnhnữa.  Ngày 11-3-1975, một ngày saukhi Ban Mê Thuột lọt vào tay quân Cộng sản, ông triệu tập một cuộchọp rất quan trọng tại Dinh Ðộc Lập. Hiện diện tại cuộc họp này với Tổng Thống Thiệu là ÐạiTướng Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng Chính phủ, Ðại Tướng Cao Văn Viên,Tổng Tham Mưu Trưởng, và Trung Tướng Ðặng Văn Quang, Cố Vấn An Ninh vàQuân Sự của Tổng Thống.  Chính trongcuộc họp này, lần đầu tiên, Tổng Thống Thiệu trình bày ý tưởng củaông là QLVNCH chỉ còn có thể giữ được hai Vùng III và IV mà thôi, cónghĩa là phải cắt bỏ 2 Vùng I và II ở phía Bắc của lãnh thổ VNCHcho phía Cộng sản.  Ðây là một việcmà, theo đánh giá của người viết bài này, Tổng Thống Thiệu đã làmkhông đúng hoàn toàn.  Lẽ ra ôngphải trình bày chuyện hết sức quan trọng này tại một phiên họp củaHội Ðồng An Ninh Quốc Gia thì mới đúng. Ba ngày sau, vào ngày 14-3-1975, cũng cùng với các vị tướng kểtrên, Tổng Thống Thiệu lại có một cuộc họp quan trọng khác tại CamRanh, lần này là với Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Vùng II.  Chính tại cuộc họp định mệnh này màTổng Thống Thiệu, với tư cách Tổng Thống và đương nhiên là Tổng TưLệnh tối cao của QLVNCH, đã biến suy nghĩ của ông thành hànhđộng, trực tiếp ra lệnh cho Tướng Phú rút bỏ Pleiku-Kontum.  Dù cho ông, trong lúc tâm sự với Tiếnsĩ Nguyễn Tiến Hưng sau này, có biện minh rằng: “Tôi ra lệnh tái phối trítức là rút quân khỏi Pleiku và Kontum để tái chiếm Ban Mê Thuột, chứkhông phải rút lui hoàn toàn khỏi Quân đoàn II,” 4 vàdù cho lời biện minh này có đúng đi nữa thì sự thật lịch sử vẫnlà chính ông đã ra lệnh cho Tướng Phú triệt thoái khỏi Pleiku, nơiđặt Bộ Tư Lệnh của Quân đoàn II. Ngoài ra, cũng trong lúc tâm sự với Tiến sĩ Hưng, ông còn nóithêm rằng: “Tôi ra hai chứ không phải một lệnh: đó là thứ nhất, rút quânkhỏi Pleiku để tái chiếm Ban Mê Thuột; và thứ hai, Bộ Tổng Tham Mưu‘theo dõi và giám sát’ (suivre et surveiller) cuộc triệt thoái này.” 5Về cái lệnh thứ hai này thì Ðại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham MưuTrưởng cho biết là không có.  Cho dùlà có thật đi nữa, Tướng Viên cũng sẽ không tích cực thi hành, vì,trên thực tế, ông đã không còn làm tròn nhiệm vụ Tổng Tham Mưu Trưởngcủa ông từ bao nhiêu năm trước đó rồi vì không đồng ý với cách làmviệc của Tổng Thống Thiệu là luôn luôn ra lệnh trực tiếp cho các TưLệnh Quân Ðoàn, không qua hệ thống của Bộ Tổng Tham Mưu.  Trên thực tế, ông đã nhiều lần xin từchức nhưng không được Tổng Thống Thiệu chấp thuận.  Phản ứng của ông là không tích cực làmtròn nhiệm vụ Tổng Tham Mưu Trưởng nữa.  Trở lại vấn đề cái lệnh thứ hai này, chúng ta có cơ sở để tinlà Tướng Viên đã không nói hết sự thật. Trong cuốn hồi ký Ðôi dòng ghi nhớ của ông, ÐạiTá Phạm Bá Hoa (nguyên Chánh Văn Phòng của Tổng Tham Mưu Trưởng,1965-1966), có thuật lại là vào buổi trưa ngày 15-3-1975, Ðại TướngViên có điện thoại cho ông, lúc đó dang giữ chức Tham Mưu Trưởng TổngCục Tiếp Vận của Bộ Tổng Tham Mưu, và ra lệnh cho ông điều động tấtcả các phi cơ vận tải C-130 có thể sử dụng được lên cho Quân đoàn II,nhưng không cho biết để dùng trong việc gì và cũng ra lệnh cho ôngphải bảo mật chuyện đó.6 Qua chuyện này, chúng ta có thể tin rằng Tổng Thống Thiệu córa cái lệnh thứ hai này, vì nếu không thì, với thái độ tiêu cựctrong nhiệm vụ của ông từ bao năm trước đó, chắc chắn Tướng Viên đãkhông có điện thoại cho Ðại Tá Hoa như vậy.  Và Tướng Viên cũng chỉ có hành độngnhư vậy thôi, hoàn toàn đúng với cách làm việc tiêu cực của ông.

          Trở lại cái lệnh rútbỏ Pleiku-Kontum, người viết thấy có rất nhiều điều cần phải đượcphân tích để có thể hiểu rõ và đánh giá Tổng Thống Thiệu: bốicảnh và thời điểm lệnh được ban hành, tính chất của lệnh, nội dungcủa lệnh, tính khả thi của lệnh, cách thi hành lệnh, và hậu quảcủa lệnh.

Bối Cảnh và Thời ÐiểmCủa Lệnh 

          Về bối cảnh và thờiđiểm, Tổng Thống Thiệu trực tiếp ra lệnh này cho Thiếu Tướng PhạmVăn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn II, tại cuộc họp ở Cam Ranh, vào ngày14-3-1975.  Tại thời điểm này, VNCHđang ở vào giai đoạn khó khăn nhứt trong suốt cuộc chiến tranh đã kéodài gần 20 năm:


·       mức quân viện từ Hoa Kỳ bị cắt giảmnặng nề, và có thể sẽ không còn nữa trong tài khóa 1976, đưa QLVNCHđến chổ không còn khả năng tác chiến hiệu quả như trước nữa;

·       không còn lực lượng tổng trừ bị để bổsung cho các mặt trận cần đến vì các đơn vị của lực lượng này đãđược điều động đi khắp nơi hết rồi;

·       hai tỉnh Phước Long và Ban Mê Thuột đã bịquân Cộng sản chiếm mà QLVNCH không có khả năng đánh chiếm lại được; 

·       và trước tình hình nghiêm trọng như vậy,vị Tổng Tư Lệnh tối cao của QLVNCH, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, đãcó ý quyết định phải cắt bỏ 2 Quân Khu I và II, chỉ giữ lại 2 QuânKhu III và IV mà thôi. 

Khi ra cái lệnh rút bỏ Pleiku-Kontum cho Tướng Phú, Tổng ThốngThiệu lần đầu tiên chính thức thực hiện cái quyết định cắt bỏ lãnhthổ đó.  Tuy đã có họp với cáctướng lãnh cao cấp vào ngày 11-3-1975, như chúng ta đã thấy trong phầntrên, nhưng Tổng Thống Thiệu phải một mình chịu trách nhiệm về quyếtđịnh này vì đây là ý nghĩ của ông và 3 vị tướng kia hoàn toàn khôngcó đóng góp gì cả trong cuộc họp; họ gần như chỉ đóng vai trò làmnhân chứng mà thôi.  Trong cuộc họptại Cam Ranh ngày 14-3-1975 thì cũng vậy, không có một vị tướng nàocó một lời phản biện nào cả. Tướng Phú là người mang cấp bậc thấp nhứt tại cuộc họp nênlại càng không có ý kiến gì cả vì ông đã thấy rõ là Tổng Thốngđã quyết định như vậy với sự đồng thuận của 3 vị tướng lãnh caocấp kia.  Thật là một điều hết sứcđáng tiếc về cuộc họp này cho một quyết định vô cùng quan trọng vềquân sự và chính trị của VNCH.

TÍnh Chất Của Lệnh

          Về tính chất củalệnh thì đây là một lệnh tối mật, chỉ có các sĩ quan cao cấp tạiBộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II được biết mà thôi, ngay cả các sĩ quan caocấp tại Bộ Tổng Tham Mưu cũng không được thông báo.  Trong cuốn hồi ký của ông, Ðại Tá Hoacòn cho biết thêm là khi ông liên lạc với Ðại Tá Lê Khắc Lý, Tham MưuTrưởng Quân Ðoàn II, để thông báo về việc ông điều động phi cơ vậntải C-130 lên Pleiku cho Quân Ðoàn II, thì Ðại Tá Lý cũng không cho ôngbiết sử dụng các phi cơ đó trong việc gì.7 Các giới chứcHoa Kỳ tại Việt Nam cũng hoàn toàn không được thông báo gì hết vềlệnh này.  Tác giả Ðỗ Sơn, trongtác phẩm Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất và sự thật cuộc triệt thoái QuânÐoàn II, đã có ghi lại cuộc phỏng vấn của ông với ChuẩnTướng Phạm Duy Tất về cuộc triệt thoái này.  Khi được hỏi về việc Tướng Phú đãtruyền đạt lại lệnh của Tổng Thống Thiệu như thế nào tại cuộc họpcủa Quân Ðòan II vào buổi chiều ngày 14-3-1975 thì Tướng Tất đã trảlời như sau: “Lệnh Tống Thống là giữ bí mật tuyệt đối, chỉ rút quân chủlực, còn bỏ lại tất cả.  Có nghĩalà bỏ Tiểu Khu, bỏ Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân, và dân chúng.  Có người đã hỏi tại sao vậy? TướngPhú trả lời: Tổng Thống đã có nói nếu họ muốn theo thì họ sẽbiết cách đi theo, các anh không phải lo. Phải rút nhanh, gọn để bảo toàn sự bất ngờ.” 8 Tínhchất tối mật này không giữ được lâu vì trên thực tế không thể nào có thể giữ được bí mật việc di chuyển của cả một Quân Ðoàn.  Cuốn hồi ký của Ðại Tá Hoa cho biếtkhi phi cơ C-130, mà ông điều động lên Pleiku vào sáng ngày 16-3-1975,đến phi trường Cù Hanh (Pleiku) đã “không thể nào đáp xuống phi trườngđược, vì người ta đông không thể tưởng tượng nổi.” 9

 

Nội Dung Của Lệnh

 

          Về mặt nội dung, lệnhcủa Tổng Thống Thiệu gồm 2 phần: 1) Bỏ Pleiku-Kontum, rút toàn bộquân chủ lực của Quân Ðoàn II về vùng duyên hải; và 2) Tổ chức lạilực lượng để phản công tái chiếm Ban Mê Thuột.   Quân Ðoàn II chỉ thực hiện được phần 1của lệnh này; phần 2 của lệnh này không bao giờ được thực hiện vì,trên thực tế, sau cuộc triệt thoái, Quân Ðoàn II không còn hiện hữunữa.  Lệnh của Tổng Thống Thiệu,như đã nói ở trên, là: “rút nhanh, gọn để bảo toàn sự bấtngờ,” nhưng hoàn toàn không có nói gì hết về khung thời gian,như vậy có thể được xem như giao toàn quyền cho Tướng Phú quyết địnhvề khía cạnh này.  Và Tướng Phú,trong cuộc họp với các sĩ quan cao cấp tại Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IIcủa ông vào đêm 14-3-1975, đã quyết định bắt đầu ngay cuộc triệtthoái vào sáng ngày 16-2-1975, nghĩa là chỉ sau có 1 ngày chuẩn bị(15-3-1975) mà thôi, nghĩa là, trên thực tế, có thể xem như là khôngcó chuẩn bị gì cả, mộtđiều gần như không có thể nào tưởng tượng được cho một cuộc hànhquân ở cấp quân đoàn.  Một điềucũng không bình thường là ngay cả lệnh hành quân trên giấy tờ mà lẽra Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn phải gửi cho các đơn vị trực thuộc Quân Ðoàncũng không có luôn.

Tính Khả Thi Của Lệnh 

          Về tính khả thi củalệnh này, được Tổng Thống Thiệu đưa ra trong một bối cảnh chính trị– quân sự hết sức nghiêm trọng, có rất nhiều vấn đề cần phải đượcxem xét và đánh giá một cách đầy đủ và khách quan.  Trước hết là cái cách thức ra lệnhcủa Tổng Thống Thiệu: khi ông cảm thấy không thuyết phục được TướngPhú về chủ trương rút bỏ Vùng II của ông (vì Tướng Phú xin được cùngtoàn quân ở lại tử thủ), ông đã sử dụng đến cả hạ sách là hăm dọacách chức và bỏ tù Tướng Phú.10 Như người viết đã trìnhbày bên trên, lệnh triệt thoái này gồm 2 phần: 1) rút lực lượng chủlực của Quân Ðoàn II ra khỏi Pleiku-Kontum, và 2) tổ chức lại lựclượng để phản công tái chiếm Ban Mê Thuột.  Như vậy, phần 2 chính là mục tiêu đểbiện minh cho phần 1 chỉ là phương tiện. Lý luận này hoàn toàn không có cơ sở vững chắc.  Ban Mê Thuột đã mất và Quân Ðoàn II,với lực lượng sẳn có (và sẽ không có thêm bất cứ lực lượng TổngTrừ Bị nào được tăng viện nữa cả), đã không thể phản công táichiếm, thì làm thế nào, cũng với lực lượng đó (chắc chắn sẽ bịgiảm thiểu rất nhiều sau cuộc triệt thoái) lại có thể phản côngchiếm lại được Ban Mê Thuột.  Ðó làmới chỉ xét sự việc thuần túy về mặt lực lượng mà thôi.  Còn về mặt tinh thần chiến đấu củabinh sĩ thì sao ?  Chắc chắn sẽ bịsút giảm trầm trọng sau khi QLVNCH đã thua 2 trận lớn, đã mất luôn 2tỉnh và cả một Quân Ðoàn phải rút lui. Tổng Thống Thiệu có thể đã nghĩ rằng rút bỏ Pleiku-Kontum thìQuân Ðoàn II sẽ không còn phải trãi quân bảo vệ các vùng đó nữa,vậy có thể tập trung nhiều quân hơn để tấn công Ban Mê Thuột.  Nếu quả thật ông đã suy nghĩ như vậythì ông đã quên là Bắc Việt cũng sẽ không cần các sư đoàn của họbao vây Pleiku và Kontum nữa, mà sẽ tập trung chúng lại để bảo vệ BanMê Thuột.  Ngoài ra, về phương diệntinh thần binh sĩ, thì quân Bắc Việt chắc chắn sẽ cao hơn tinh thầncủa binh sĩ QLVNCH rất nhiều vì họ đang liên tiếp chiến thắng và đãkhiến cho QLVNCH phải triệt thoái cả một Quân Ðoàn, một điều chưatừng xảy ra trong suốt cuộc chiến tranh gần 20 năm.  Chuyện phản công tái chiếm Ban MêThuột, mục tiêu của lệnh triệt thoái này, rõ ràng là một chuyệnkhông tưởng.  Câu hỏi cần cólời giải đáp là có thể nào Tổng Thống Thiệu là một vị tướng lãnhcao cấp, có nhiều kinh nghiệm, và là một người luôn luôn làm việc cótính toán cẩn thận, lại có thể suy nghĩ nông nổi như vậy haykhông?  Câu trả lời của người viếtbài này là: KHÔNG.  Tổng Thống Thiệu chỉ dùng nó làm cáicớ để thực hiện việc cắt bỏ Vùng II mà ông đã quyết định tại cuộchọp ngày 11-3-1975 tại Dinh Ðộc Lập với các Tướng Khiêm, Viên vàQuang.   Suy nghĩ thêm một chút nữachúng ta cũng thấy rằng ông không đề cập gì cả đến chuyện tái chiếmPleiku- Kontum, nghĩa là nếu có phản công thì chỉ là để chiếm lạiBan Mê Thuột mà thôi, không phải để chiếm lại Vùng II.  Tóm lại mức độ khả thi của lệnh nàylà rất đáng nghi ngờ.

Cách Thi Hành Lệnh 

          Về cách thức thựchiện lệnh này thì có thể tóm tắt trong một câu: không được chuẩn bịchu đáo, nếu không muốn nói là không có chuẩn bị gì cả.  Ðây là một lỗi lầm lớn, rất lớn củaTướng Phú.  Dù cho lệnh của TổngThống Thiệu là phải thực hiện cho nhanh, ông cũng không thể và khôngnên thực hiện quá nhanh như vậy. Chắc chắn ông phải biết rằng dân chúng trong Vùng II, đặc biệtlà tại Pleiku, nơi đóng Bộ Tư Lệnh của Quân Ðoàn II, sẽ biết về việctriệt thoái này, và họ sẽ đi theo. Như vậy, ông không thể chỉ quan tâm đến khía cạnh quân lính vàquân trang, quân dụng mà phải tính trước cả yếu tố dân chúng, mà làdân chúng bị hoảng hốt, kinh hoàng trước việc lui binh vĩ đại, vôtiền khoáng hậu này.  Ngoài ra, mộtsố việc làm của Tướng Phú trong thời gian này cũng cần phải đượcđánh giá.  Việc thứ nhứt là việcông đòi hỏi, gần như là một điều kiện để đánh đổi cho việc ông phảithi hành cái lệnh vô cùng khó khăn này, Tổng Thống Thiệu phải đồngý thăng cấp Chuẩn Tướng cho Ðại Tá Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng BiệtÐộng Quân Vùng II.  Tình hình quânsự lúc bấy giờ hoàn toàn không phù hợp cho việc thăng cấp trong quânđội; QLVNCH đang thua trận nặng nề chứ có phải đang chiến thắng oanhliệt gì đâu.  Thứ hai, chỉ thăng cấpcho 1 vị đại tá là ông Tất mà thôi (với lý do gì cũng không thấynói rõ, nhưng chắc chắn không phải do hành động gì phi thường tạimặt trận lúc bấy giờ) làm sao không tạo ra sự dèm pha (ông Tất làbạn thân của ông Phú từ nhiều năm) và bất mãn của các vị đại tákhác trong Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn, trong lúc đang cần sự đồng thuận vàcộng tác tích cực giữa các sĩ quan cao cấp của Quân Ðoàn trong cuộchành quân hết sức quan trọng này. Việc thứ ba là Tướng Phú gần như không có mặt trong cuộc triệtthoái này.  Sáng ngày 15-3, ông vàmột số sĩ quan trong bộ tham mưu của ông bay về Nha Trang với lý do làđể thiết lập bản doanh mới cho Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn.  Việc chỉ huy tổng quát cuộc triệtthoái này được ông giao cho Tướng Tất.11 Ðây có thể là độngcơ chính của Tướng Phú trong việc hết sức cố gắng xin Tổng ThốngThiệu thăng cấp Chuẩn Tướng cho bằng được cho Ðại Tá Tất.  Theo kế hoạch, chỉ có Sư Ðoàn 6 KhôngQuân sẽ tự lo liệu để di chuyển toàn bộ lực lượng về căn cứ khôngquân Phan Rang, tất cả các lực lượng còn lại của Quân Ðoàn II sẽ dichung với nhau, mỗi ngày sẽ có một đoàn 200-250 xe sẽ rời Pleiku vớibinh sĩ và chiến cụ.  Toàn bộ cáclực lượng chủ lực của Quân Ðoàn II hiện diện trong vùng Pleiku-Kontumlúc đó gồm:


·       1 tiểu đoàn thuộc Trung Ðoàn 44, Sư Ðoàn23 Bộ Binh

·       6 Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân: 4, 7, 21, 22, 24và 25

·       Thiết Ðoàn 21 Chiến Xa M.48 (thuộc LữÐoàn 2 Kỵ Binh)

·       2 tiểu đoàn pháo 155 ly Howitzer

·       1 tiểu đoàn pháo 175 ly tầm xa   

·       Liên Ðoàn 20 Công Binh Chiến Ðấu

·       Liên Ðoàn 231 Yểm Trợ Tiếp Vận

Theo kế hoạch mà Tướng Phú đã đề nghị tại cuộc họp ở CamRanh ngày 14-3 và đã được Tổng Thống Thiệu và các tướng lãnh hiệndiện đồng chấp thuận, Liên TỈnh Lộ 7B (LTL-7B), con đường (tách ra từQuốc Lộ 14 là quốc lộ nối liền Pleiku với Ban Mê Thuột) từ Ngả BaMỹ Thạch đi về hướng Ðông Nam đến Tuy Hòa, đã được chọn để rútquân.  Lý do là vì cả 2 quốc lộhuyết mạch nối liền cao nguyên với duyên hải là Quốc Lộ 19 (nối liềnPleiku với Qui Nhơn) và Quốc Lộ 21 (nối liền Ban Mê Thuột với NinhHòa) đều đã bị các đơn vị quân Bắc Việt đóng chốt và cắt đứt.  LTL-7B là một con đường trãi đá, dài182 km, ít được sử dụng vì hư hại nhiều, gần như bỏ hoang, gồm 3đoạn như sau:


·       từ ngả ba Mỹ Thạch đến Cheo Reo: 84 km,đường tốt

·       từ Cheo Reo đến Củng Sơn: 48 km, qua đèoTuna (cách Cheo Reo khoảng 4 km về phía Nam, ngày nay gọi là đèo TôNa), qua cầu Sông Ba (thời Pháp thuộc gọi là cầu Le Bac, sông Ba ởkhúc này rất rộng nên cầu nầy dài đến 600 m nhưng đã bị sập từ lâu,và sau cùng phải qua cầu Cà Lúi (một sông nhánh của sông Ba) trướckhi đến Củng Sơn

·       từ Củng Sơn đến Tuy Hòa: 50 km, đoạnđường này đã bị quân Đồng minh Ðại Hàn gài rất nhiều mìn trước năm1973. 

 Nói chung LTL-7B không phải làmột trục lộ giao thông tốt cho cuộc rút quân, nhưng nó là con đườngduy nhứt còn lại và có thể tạo ra yếu tố bất ngờ cần thiết chocuộc rút quân.

Lịch trình rút quân được sắp xếp như sau:

 

·       Ngày 16-3: Liên Ðoàn 20 Công Binh Chiến Ðấuđi tiền tiêu, mở đường và sửa chửa cầu đường nếu cần; Liên Ðoàn 6Biệt Ðộng Quân đi theo để yểm trợ cho Công Binh; cùng đi trong đợt đầutiên này là một số đơn vị tiếp vận, quân cụ di chuyển trên khoảng 200quân xa, cùng với một số đơn vị pháo binh, và một chi đoàn thiếtgiáp M-48 thuộc thiết đoàn 21 đi theo để bảo vệ đoàn xe  

·       Ngày 17-3: các đơn vị còn lại của tiếpvận, pháo binh, và quân y, di chuyển trên khoảng 250 quân xa, với mộtchi đoàn thiết giáp M-48 đi theo để bảo vệ đoàn xe

·       Ngày 18-3: các đơn vị thuộc Bộ Tư LệnhQuân Ðoàn II, một vài đơn vị thuộc Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh, cácđơn vị Quân Cảnh, Tiểu đoàn thuộc Trung Ðoàn 44 của Sư Ðoàn 23, vàmột đơn vị thiết giáp đi theo bảo vệ đoàn xe cũng gồm khoảng 250 quânxa

·       Ngày 19-3: các Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quâncòn lại và các đơn vị thiết giáp cuối cùng đi tập hậu để chậnđịch quân truy kích     

 

Bảnđồ Liên TỈnh Lộ 7B

Ngày đầu tiên của cuộc rút quân diển ra suông sẻ, tốt đẹp,đúng kế hoạch vì dân chúng cũng như các đơn vị quân Bắc Việt phe chưahay biết về cuộc triệt thoái.  Nhưngvào cuối ngày thì dân chúng Pleiku đã biết chuyện và họ lũ lượtkéo nhau chạy theo đoàn quân di tản. Cũng trong buổi chiều ngày hôm đó, Tướng Văn Tiến Dũng của BắcViệt cũng đã biết tin về cuộc triệt thoái của Quân Ðoàn II, và ôngra lệnh cho Tư Lệnh Sư Ðoàn 320 phải cấp tốc truy kích đoàn quân đangtriệt thoái trên LTL-7B.

Ngày hôm sau, 17-3, dân chúng bắt đầu nhập vào đoàn quân triệtthoái bằng đủ tất cả những phương tiện di chuyển mà họ có, kể cảmột số rất đông đi bộ, tất cả khiến cho đoàn quân không thể di chuyểnnhanh được.


 Mộtcảnh của đoàn quân triệt thoái trên LTL-7B

Ngày 18-3, đoàn quân đến được Cheo Reo và ngừng lại vì Công Binhchưa làm kịp cầu bắc qua sông Ba ở phía Nam Cheo Reo.  Cũng trong ngày này, trước tình hìnhcuộc triệt thoái có vẻ thuận lợi với yếu tố bất ngờ, “tướngPhú thay đổi ý kiến.  Ông ra lệnhngưng cuộc lui binh và thay vào đó là lệnh lập tuyến phòng thủ tạiHậu-Bổn.” 12 Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn IIdưới sự chỉ huy của Chuẩn Tướng Trần Văn Cẩm đặt ngay tại mộttrường học trong thị trấn Hậu Bổn (Cheo Reo).  Nhưng ngay tối hôm đó, các đơn vị thuộc SưÐoàn 320 của Bắc Việt đã bắt kịp đoàn quân triệt thoái tại Cheo Reovà bắt đầu tấn công bằng tất cả hỏa lực mà họ có, gây thiệt hạirất nặng cho đoàn quân triệt thoái và dân chúng đi theo, rất nhiềuquân xa bốc cháy, nhiều trọng pháo và thiết giáp bị phá hủy, xe cộvà xác người ngỗn ngang trên tỉnh lộ và trong thị trấn.  Liên Ðoàn 23 BÐQ được lệnh tiến chiếmđèo Ban Bleik ở phía tây Thị Trấn Cheo Reo để chặn dứng sức tấn côngcủa quân Bắc Việt, kéo dài thời gian để giúp cho Công Binh có thểlàm xong được cầu bắt qua sông Ba.  

Ngày 19-3, trận kịch chiến vẫn tiếp tục tại Cheo Reo giữa cácliên đoàn BÐQ và các đơn vị của Sư Ðoàn 320 Bắc Việt đang truykích.  Trong ngày này, một số đơnvị Ðịa Phương Quân người Thượng đã nổi loạn, bỏ hàng ngũ, cướp phá,gây hỗn loạn trong đoàn quân dân triệt thoái.  Trong lúc trận chiến đang diễn ra ácliệt, một phi tuần phản lực cơ A-37 của Không Quân VNCH lại oanh tạclầm vào quân bạn, gây thiệt hại rất nặng cho một một tiểu đoàn củaLiên Ðoàn 7 BÐQ, và làm cho tình hình trong đoàn quân triệt thoái càngthêm hỗn loạn; mệnh lệnh và kỷ luật gần như không còn nữa.  Một số cấp chỉ huy của các thiết đoàncũng như của các tiểu đoàn BÐQ có nhiệm vụ yểm trợ đoàn quân triệtthoái không còn chỉ huy được các đơn vị của họ nữa.  Trước tình hình rối loạn, không cònkiểm soát được nữa tại Hậu Bổn, Tướng Phú lại một lần nữa thayđổi ý kiến, ra lệnh bỏ tuyến phòng thủ ở Hậu Bổn, và tiếp tục luiquân về Tuy Hòa.  Ông “…cho trực thăng tới bốc Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn đưa về TuyHòa, riêng Tướng Cẩm là người ở lại sau cùng nên chính trực thăngcủa tôi [tôi = Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất) bốc ông.” 13 Kểtừ lúc này trở đi, không còn một vị tướng lãnh nào trongđoàn quân triệt thoái nữa hết, việc chỉ huy thống nhứt hoàntoàn không còn nữa, đoàn quân như rắn mất đầu, binh sĩ cảm thấy bịbỏ rơi, các cấp chỉ huy và các đơn vị mạnh ai nấy lo.  Trong thời gian đó, Không Quân VNCHđược lệnh ném bom phá hủy tất cả các chiến cụ nặng, không để chúnglọt vào tay địch quân.  Sáng ngày20-3, đoàn quân triệt thoái cố gắng phá vòng vây của các đơn vịthuộc Sư Ðoàn 320 Bắc Việt, thoát ra khỏi Hậu Bổn để tiến về phíaCủng Sơn, nhưng mới được khoảng nửa đường thì bị chận lại vì PhúTúc đã bị quân Cộng sản chiếm. Liên Ðoàn 7 BÐQ được lệnh tiến lên, tấn công dũng mãnh và chiếnthắng, chiếm lại được Phú Túc trong cùng ngày.  Ngày hôm sau, 21-3, đoàn quân tiếp tụctiến về Củng Sơn, mặc dù vẫn tiếp tục bị địch quân truy kích.  Trên đường đi, sau khi ra khỏi Phú Túc,tình hình mất kỷ luật bên trong đoàn quân triệt thoái càng lúc càngtệ hơn, binh sĩ nhiều đơn vị tranh nhau, kể cả bắn nhau, để vượt lêntrước.  “… Súng bắt đầu nổ từ mộtphe, bạo lực lan nhanh như lửa cháy đồng, trong chốc lát nó bao trùmđoàn xe, súng nổ khắp nơi, người ta bắn để cướp đường giành đitrước…Bấy giờ súng không nổ phát một, ngưới ta bắn hàng tràng đạiliên, không bắn chỉ thiên, mà bắn xả trên đầu… ” 14Ðoàn xe sau cùng cũng đến được bờ sông Ba.  Lúc đó Liên Ðoàn 20 Công Binh Chiến Ðấuvẫn làm chưa xong cầu.  Cầu phao đãđược đưa từ Nha Trang lên Tuy Hòa nhưng sau đó không đưa được bằng đườngbộ từ Tuy Hòa về Củng Sơn vì các chốt chận của quân Cộng sản.  Sau cùng Không Quân VNCH phải sử dụngđến các trực thăng khổng lồ Chinook CH-47 để dưa từng phần từ Tuy Hòavề Củng Sơn.15  Liên Ðoàn 6BÐQ, tại phòng tuyến phía Tây Củng Sơn, đã chiến đấu rất ác liệt đểchận đứng các cuộc tấn công của Trung Ðoàn 64 của Sư Ðoàn 320 BằcViệt, nhằm giúp cho Công Binh hoàn thành cầu phao bắt ngang qua SôngBa.  Ngày 22-3, cầu phao làm xong,đoàn xe bắt đầu vượt sông Ba.  Lúcbắt đầu vượt sông, vì tranh nhau qua cầu cho nhanh, một số xe tiến quánhanh làm sập một đoạn cầu phao, gây thêm một số thương vong.  Công Binh đã nhanh chóng sửa chửa lạiđoạn cầu bị sập và đoàn quân triệt thoái qua được sông Ba, sử dụngTỉnh Lộ 436 để tiến về Tuy Hòa.  Các Tiểu Ðoàn 35 và 51, thuộc Liên Ðoàn 6 BÐQ, tiếp tục bámgiữ phòng tuyến tại Củng Sơn để bảo vệ phía sau của đoàn quân.  Tiểu Ðoàn 34, thuộc Liên Ðoàn 7 BÐQ, tiếnvề phía trước, nhổ từng chốt chận của Cộng quân để giúp đoàn dânquân triệt thoái tiến về Tuy Hòa. Ngày 27-3, vào lúc 9 giờ tối, những chiếc quân xa đầu tiên củađoàn quân triệt thoái về đến Tuy Hòa.                                      

Hậu Quả Của Lệnh 

          Về mặt hậu quả, cuộctriệt thoái này là bước đầu của tiến trình sụp đổ nhanh chóngngoài sức tưởng tượng của VNCH: nếu tính từ ngày 16-3-1975, ngàykhởi đầu của cuộc lui quân, cho đến ngày 30-4-1975, ngày Ðại Tướng DươngVăn Minh, Tổng Thống cuối cùng của VNCH đầu hàng quân Bắc Việt tạiDinh Ðộc Lập, thời gian chỉ có 44 ngày. 

Hậu quả đầu tiên và trực tiếp của cuộc triệt thoái vô tiềnkhoáng hậu trong lịch sử của QLVNCH này là việc Quân Ðoàn II đã bịxóa sổ, và điều này có nghĩa là VNCH đã mất đi ¼ lực lượng quân sựtrong vòng chỉ có hơn 10 ngày.   “Khoảng60 ngàn quân chủ lực khi về đến Tuy Hòa chỉ còn lại khoảng 20ngàn.  Năm liên đoàn BÐQ với quân sốkhoảng 7 ngàn chỉ còn lại 900 người. Lữ Ðoàn 2 Kỵ Binh với hơn 100 thiết-xa các loại chỉ còn đúng13 thiết-vận-xa M-113.” 16 Ðại Tướng Cao Văn Viên, TổngTham Mưu Trưởng QLVNCH, tổng kết thiệt hại của Quân Ðoàn II trong tác phẩmcủa ông viết bằng Anh ngữ, The Final collapse, như sau: “Atleast 75 percent of II Corps combat strength, to include the 23d InfantryDivision as well as Ranger, armor, artillery, engineer, and signal units, hadbeen tragically expended within ten days.” 17 (Xin tạmdịch sang Việt ngữ như sau: “Ít nhứt75 phần trăm lực lượng chiến đấu của Quân Ðoàn II, bao gồm các đơn vịcủa Sư Ðoàn 23 Bộ Binh cũng như Biệt Ðộng Quân, thiết giáp, pháo binh,công binh, và truyền tin, đã bị tiêu diệt một cách bi thảm trong vòngmười ngày”).  Về phương diệnlãnh thổ, Quân Ðoàn II đã mất gần hết các tỉnh thuộc vùng CaoNguyên, đó là các tỉnh Pleiku, Kontum, Darlac, và Phú Bổn, với cáctỉnh còn lại là Lâm Ðồng, Tuyên Ðức và toàn bộ các tỉnh ở vùngDuyên Hải đang bị đe dọa rất nặng nề.

Các hậu quả dây chuyền tiếp theo là việc QLVNCH phải rút luikhỏi tất cả những vùng lãnh thổ của Quân Ðoàn I và II bị áp lựcnặng nề của các sư đoàn quân Bắc Việt. Trong thời gian này một số chỉ huy cao cấp của Quân Ðoàn II nhưChuần Tướng Trần Văn Cẩm, Tư Lệnh Tiền Phương, và Ðại Tá Lê Khắc Lý,Tham Mưu Trưởng, đã bị địch quân bắt làm tù binh.  Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh QuânÐoàn I phải rút bỏ Huế và Ðà Nẵng. Lần lượt tất cả lãnh thổ của hai quân khu này đều lọt vào tayđịch.  Quân Ðoàn III phải thiết lậpBộ Tư Lệnh Tiền Phương tại Phan Rang, nhưng chẳng bao lâu, phòng tuyếnnày cũng tan vở vào ngày 15-4-1975, và Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi,Tư Lệnh Tiền Phương, và Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Tư Lệnh Sư Ðoàn 6Không Quân (từ Pleiku di chuyển về) cũng đã bị địch quân bắt làm tùbinh.  Bắc Việt tập trung tất cả 5sư đoàn tấn công Xuân Lộc nhưng bị Sư Ðoàn 18 của Thiếu Tướng Lê MinhÐảo chận đứng lại.  Phe Cộng sảnquyết định bỏ Xuân Lộc tiến thẳng về Sài Gòn và VNCH đã đầu hàngvào trưa ngày 30-4-1975. 

Thay Lời Kết:

          QLVNCH đã giữ được MiềnNam trong 20 năm, chiến thắng tất cả những cuộc Tổng Tấn Công của quânBắc Việt, nhưng đã tan rã và bại trận trong vòng 44 ngày, kể từngày 16-3-1975 khi Quân Ðoàn II bắt đầu cuộc triệt thoái khỏi Pleikutheo lệnh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cho đến ngày 30-4-1975 khiTổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.  Việc Hoa Kỳ “tháo chạy” và bỏ rơi“đồng minh” VNCH qua hành động cắt giảm và sau đó cắt bỏ hoàn toànquân viện cho VNCH, mỉa mai thay, là một “đảm bảo” cho việc thất trậncủa VNCH, như Ðại Tướng Fred C. Weyand, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ(U.S. Army Chief of Staff), đã nhận xét trong báo cáo đề ngày 4-4-1975mà ông trình lên Tổng Thống Gerald Ford sau chuyến đi xét duyệt tìnhhình quân sự của VNCH từ ngày 28-3-1975 đến ngày 4-4-1975: “Thepresent level of U.S. support guarantees GVN defeat.” 18 Xintạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Mứcviện trợ hiện nay của Hoa Kỳ bảo đảm cho việc thất trận của VNCH.”  Lệnh triệt thoái Quân Ðoàn II của TổngThống Thiệu, mà hậu quả sau cùng là việc đầu hàng của VNCH vàongày 30-4-1975, nghĩ cho cùng, chỉ là một chất xúc tác giúp cho việcthất trận của VNCH diễn ra nhanh hơn mà thôi.    

Ghi Chú: 

1.   Tiểusử Ðại Tướng Cao Văn Viên, tài liệu trực tuyến tại địa chỉ Internet sau đây:   http://nhaydu.com/index_83hg_files/main_files/Tuong/TS-TuongCaoVanVien.htm.

2.   Congresscuts military aid to South Vietnam, tài liệu trực tuyến tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.history.com/this-day-in-history/congress-cuts-military-aid-to-south-vietnam

3.   Nguyễn Ðức Phương, Chiếntranh Việt Nam toàn tập: từ trận đầu (Ấp Bắc – 1963) đến trận cuối(Sài Gòn – 1975).  Toronto:Làng Văn, 2001.  Tr. 732.

4.   Nguyễn Tiến Hưng, Tâmtư Tổng Thống Thiệu.  SanJose, Calif.: Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, 2010.  Tr. 52.

5.   Nguyễn Tiến Hưng, sđd, tr.57.

6.   Phạm Bá Hoa, Ðôidòng ghi nhớ: hồi ký chính trị, 1963-1975.  Ấn bản lần 4.  Houston, Tex.: Ngày Nay, 2007.  Tr. 271.

7.   Phạm Bá Hoa, sđd, tr.273-274.

8.   Ðỗ Sơn, Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất vàsự thật cuộc triệt thoái Quân Ðoàn II.  Burke, Va.: Nhà xuất bản THAO UYEN PHAM,2013.  Tr. 111.

9.   Phạm Bá Hoa, sđd, tr. 275.

10.                      Ðỗ Sơn, sđd, tr. 98 và 122.

11.                      Vấn đề ai là người đượcTướng Phú giao cho nhiệm vụ chỉ huy toàn bộ cuộc triêt thoái của QuânÐoàn II cho đến nay vẫn còn được tranh cải, lý do chánh là vì hoàntoàn không có lệnh hành quân trên giấy tờ.  Tuy nhiên, trừ trường hợp cuốn sách củatác giả Ðỗ Sơn, tất cả các tài liệu, đặc biệt là 2 tác phẩm viếtbằng Anh ngữ do Trung Tâm Quân Sử của Lục Quân Hoa Kỳ (U.S. Army Centerof Military History) xuất bản, The Final collapse của Ðại TướngCao Văn Viên (năm 1983), và Vietnam: from cease-fire to capitulationcủa Ðại Tá Hoa Kỳ William E. Le Gro (năm 1981), đều ghi rằng Tướng Phúđã chỉ định Tướng Tất chỉ huy tất cả các lực lượng trong cuộctriệt thoái này.  Hai cuốn sách Anhngữ này có mức độ khả tín cao.

12.                      Nguyễn Ðức Phương, sđd, tr.735.

13.                      Ðỗ Sơn, sđd, tr. 132.

14.                      Hoàng Khởi Phong, NgàyN+…. Sách điện tử trực tuyến tại địa chỉ Internet như sau:http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=1663&rb=08, Phần 1,Pleiku-Tuy Hòa, Ðoạn Ngày N+2, 12 giờ trưa.

15.                      Cao Văn Viên, TheFinal collapse.  Washington,D.C.: U.S. Army Center of Military History, 1985.  Tr. 92. Nguyên văn Anh ngữ như sau: “A pontoon bridge had been brought to TuyHoa from Nha Trang, but it was impossible to move the bridge to Cung Son by roadbecause of several enemy blocking positions. Finally, the bridge was carried to Cung Son piece by piece by CH-47helicopters.”

16.                      Nguyễn Ðức Phương, sđd, tr.738.

17.                      Cao Văn Viên, sđd, tr. 95.

18.  Nguyễn Tiến Hưng, sđd, tr. 526.