Mồng mười vía đất hay vía thần tài?

Lê Đại Anh Kiệt

“Mồng chín vía trời, mồng mười vía đất”

Vài năm gần đây nhiều người truyền tụng thông tin mồng mười tháng giêng âm lịch là ngày vía Thần Tài và bày vẻ cúng kiếng lễ mễ, mua vàng cầu may… Theo lễ tục người Việt nhất là người Việt Miền Nam được ghi nhận trong sách vở và thực tế, đó là ngày vía đất.

Người Việt có truyền thống tôn trong trời đất như thần linh, vua chúa các triều đại phong kiến đều có đàn Nam Giao để làm lễ tế cáo trời đất hàng năm. Mồng mười vía đất là lễ tục lâu đời của người Việt ở Miền Nam thể hiện thành nếp sống và được ghi nhận trong sách vở.

Năm 1895 Vía Đất đã có trong từ điển

Sách Đại Nam quấc âm tự vị của Hùinh Tịnh Của xuất bản năm 1895 phần giải nghĩa chữ Vía đã ghi nhận thành ngữ “Mồng chín vía Trời, mồng mười vía Đất: Ngày mồng 9 mồng 10 tháng Giêng thói tục hay cúng Trời cúng Đất, hiểu là ngày Trời Đất sinh.” Từ điển này hoàn toàn không ghi nhận ngày vía Thần Tài


“Đại Nam quấc âm tự vị” trang 551.

Người Việt Miền Nam ngày trước mỗi nhà đều có một bàn thiên ở trước nhà và thắp nhang cúng nước mỗi ngày. Bàn thờ thiên đơn giản chỉ là một bệ rộng năm tất vuông, đặt trên đầu trụ cao hơn 1 m, bên trên có bát hương, bình bông và ba chung nhỏ. Mỗi tháng vào ngày rằm, mồng một thì có thêm bông tươi, trái cây không phải loại cầu kỳ mà là những bông trái thu hoạch trong vườn nhà như bông trang, bông điệp,… Nước cúng ở bàn thiên cũng chỉ là nước lã chứ không phải nước trà. Ngày nay ở các vùng nông thôn vẫn còn duy trì việc thờ bàn Thiên.

Với đạo Cao Đài, tôn giáo bản địa của Việt Nam thành lập năm 1926, ngày mồng chín tháng giêng âm lịch được tôn xưng là ngày vía đức chí tôn tức đức Cao Đài, Ngọc Hoàng Thượng Đế. Về ý nghĩa đạo Cao Đài không xem đây là ngày sinh theo nghĩa đen của từ vía mà lấy dịch học giải thích “Hai con số Khảm 1 và Ly 9 nằm trên trục Bắc Nam tức nhiên là cái dụng của Dịch Lý, 1 là Thái Dương và 9 là Lão Dương. Thế nên hai con số 9 và 1 này đều là số Dương cả để chỉ vào quyền uy tối thượng là Thượng Đế”.

Trên Fb cá nhân, tác giả Nguyễn Gia Việt có nhận định rất thấu đáo là “Người Miền Nam cúng mùng 10 là cúng đất đai và tri ơn người mở đất chứ không phải vía thần tài”. Với nền văn minh nông nghiệp lúa nước ở vùng đất khẩn hoang, Vía Đất là tập quán, phong tục thuần Việt. Thần Tài là niềm tin của người Hoa vốn có truyền thống giao thương buôn bán.


Bàn Thiên.

Nhà nông cúng đất, cúng vườn cúng ruộng

Nhà báo Tâm Chánh, nguyên Tổng Biên Tập báo Sài Gòn Tiếp Thị người gốc miệt vườn Bến Tre cũng chia sẻ rằng: “Cúng mùng mười có lẽ từ tục cúng thần tài được Việt hoá thành cúng chủ thổ. Bà ngoại tôi giải thích quan niệm của ông bà xưa, đất này là đất mượn, đất khẩn nên cúng để xin được làm ăn, canh tác. Từ quan niệm này ra thành cúng vườn, cúng ruộng. Ở quê tôi, cúng vườn mùng 10, cũng là dịp khởi động mùa làm vườn, mùng mười là kì khởi công móc mương, bồi vườn, dịp này nước sát. Qui trình nước sát để làm mương, bồi vườn là từ tháng giêng đến tháng 5”.

Cuộc khẩn hoang là sự chung sức của ba cộng đồng Việt, Hoa, Khmer. Những người khẩn hoang đã tôn trọng hài hòa nhau từ xưng hô đến cả tín ngưỡng.


Miếu ông Tà của người Khmer, bên cạnh gốc cây dầu to nhất ở Trà Vinh. (nguồn: http://tuoitre.vn/ong-ta-trong-tin-nguong-dan-gian-nam-bo-296385.htm

Về xưng hô, tại sao người Miền Nam không có con cả mà bắt đầu bằng thứ hai? Có nhiều cách lý giải nhưng hợp lý nhất là giả thiết cho rằng người Nam Kỳ nhường vai anh cả cho chủ đất Khmer, nhận mình là anh Hai, gọi người Hoa là chú Ba Tàu, anh Ấn Độ vô sau nên gọi là anh Bảy Chà Và.

Theo trang web di sản Hội An, nơi khởi đầu tiến trình khai hoang, người Hội An đa phần thờ ông Địa tại gia. Có nhà thờ ngài chung với Thần Tài ngay trên nền giữa nhà trong một cái khán có dáng một cái bàn; người khác, thường là không buôn bán lại phối thờ ngài chung nơi trang thờ Táo Quân gồm 3 vị: Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ.

Ở Miền Nam, bàn thờ thần đất cũng đặt trên nền nhà, thường có tượng ông Địa chung với tượng Thần Tài. Ở những vùng đông người Khmer, người dân thờ ông Địa chung với ông Tà. Cũng có nơi người ta phân chia lãnh địa rạch ròi “ông Địa giữ nhà, ông Tà giữ ruộng”. Dân gian còn lưu truyền câu chuyện vui về các vụ tranh chấp, thưa kiện giữa ông Địa với ông Tà.

Sống cộng cư, tâm linh cộng đồng!

Bàn thờ thần tài, thổ địa.

Mới đây, trong chuyến điền dã tìm tư liệu cho phim tài liệu Hành Trình Cây Lúa nhà biên kịch Võ Đắc Dự còn phát hiện thêm trong các đình, chùa ở Miền Tây Nam Bộ (phía nam sông Hậu) thường có những cái miếu nhỏ thờ ông Địa, ông Tà?! Một vài miếu ông Tà cũng có cất cái miếu nhỏ riêng thờ ông địa!? Mặt khác lại có trường hợp tại xóm Cù Là xưa, nay thuộc xã Vĩnh Hoà Hiệp - Châu Thành - Kiên Giang lại có miếu thờ ông Địa qui mô tương đối lớn, không kém một ngôi đình làng và nghi thức thờ phượng, lệ cúng cũng giống như cúng kỳ yên ở các đình thần.

Từ các sinh hoạt, nghi lễ dân gian cho thấy Thần Đất - ông Địa của người Miền Nam khác biệt với Thổ Địa của người Hoa. Thổ Địa của người Hoa là quan chức cấp thấp của thiên đình mang hia đội mão, râu dài. Hình ảnh ông Địa của người Miền Nam gần gũi với dân gian, áo vải, đầu trần chân đất, vui tính lạc quan, tốt bụng giúp đỡ mọi người. Ông Địa luôn có mặt trong các đám múa lân cầu cúng quốc thái dân an mưa thuậ gió hoa. Ai gặp khó việc gì chỉ cầu cúng ông Địa nải chuối là xong.

Hiện tượng thờ Ông Địa chung với Thần Tài hay ông Tà càng cho thấy yếu tố tâm linh tích cực, trong trẻo của người Miền Nam. Trong cuộc sống cộng cư ba dân tộc Việt, Khmer, Hoa cùng khai hoang vùng đất mới, ba thần nhân niềm tin tâm hinh thần Đất - ông Địa của người Việt, Thần Tài cuả người Hoa và ông Tà của người Khmer cũng hài hòa tôn trọng nhau. Tôn trọng nhưng không làm mất bản sắc, nên cộng đồng dân cư nào đông thì thần của cộng đồng ấy sẽ là trung tâm. Ông Địa của người Việt là chủ thể chính trong ba ông thần được dân gian thờ cúng.

Thờ cúng cả cộng đồng khẩn hoang!

Bộ tam sên.

Việc cúng vía đất mồng 10 tết hàng năm với nghi lễ đặc trưng, đơn giản, là phong tục tốt đẹp của đạo nghĩa uống nước nhớ nguồn, lối sống hài hòa thân thiện với thiên nhiên. Điều này càng thể hiện rõ hơn trong việc thờ cúng và nội dung vật cúng.

Đến nay, theo cổ lệ bàn thờ thổ địa trong gia đình người Nam Kỳ tuy chỉ hai tượng ông Địa và Thần Tài nhưng cắm đến 5 cây nhang, khi cúng phải dọn 5 cái chén và chỉ có ba đôi đũa. Vì sao lạ vậy? Nếu lấy Bát Tự hay Dịch số của ra giải thích thì sẽ lãng quẻ, trớt lớt.

Truyền thuyết dân gian Nam Kỳ giải thích rất căn cơ việc bàn thờ này có năm cây nhang và năm cái chén là do nguồn gốc lịch sử cộng cư thời khẩn hoang. Bàn này thờ đến 5 vị gồm: Ông Chủ Thổ (đất) có lẽ là bậc công thần mở mang khai khẩn vùng đất phương Nam. Hai vợ chồng ông chủ Ngưu (người Khmer) do vùng đất nầy ngày xưa của Khmer, hai người còn lại là ông Địa của người Việt và và ông Thần Tài của người Hoa.

Chỉ có ba đôi đũa vì hai vợ chồng ông chủ Ngưu ăn bốc. Quy ước này rất rõ không chỉ trong ngày cúng vía mồng mười tháng giêng. Trong các lễ giỗ ở Nam Kỳ ngoài các mâm cúng ông bà tổ tiên đều có mâm cúng đất đai riêng. Mâm này cũng bày 5 cái chén, năm cây nhang và ba đôi đũa.

Giả thiết về sự hài hòa của văn hóa cộng cư còn thể hiện trong đồ cúng. Theo truyền thống mâm cúng vía đất gồm những món bắt buộc như sau:

  • Bình bông.
  • Trái cây.
  • 5 chung trà hoặc rượu hay nước lọc.
  • Giấy vàng bạc.
  • Gạo muối.
  • Trầu cau, thuốc xỉa.
  • Một điếu thuốc rê to bằng ngón chân cái.
  • Bộ Tam Sên gồm: trứng, thịt luộc và tôm (có thể thay thế bằng cua, cá) biểu trưng cho tam giới thiên thủy địa.
  • Dĩa rau luộc, chén mắm nêm.
  • Con cá lóc nướng trui.

Dân gian giải thích rằng, trong đồ cúng thì phần mặn với dĩa rau luộc, mắm nêm, là cúng cho vợ chồng ông chủ Ngưu. Trầu cau, thuốc xỉa, thuốc rê, cá nướng trui dành cho người mở đất. Giấy vàng bạc dành cho Thần Tài.

Qua vật phẩm cúng, ta thấy bậc tiền hiền trọng thị người chủ vùng đất xa xưa là vợ chồng ông chủ Ngưu. Mâm cúng dùng thực phẩm mà người bản xứ khi xưa ưa dùng. Người khẩn hoang thì ăn món quen thuộc hoang dã là cá nướng trui. Cứ thử nghĩ, nếu ông Thần Tài cân đai áo mão ngồi bệt dưới đất ăn con cá nướng trui thì còn gì là quan chức thiên đình!

Tri ơn, không vụ lợi

Điều quan trọng nhất là trong nội dung khấn vái không có chuyện cầu tài lộc cũng không vái ông Thần Tài. Người được khấn cúng là “đất đai viên trạch, tiền hiền khai khẩn hậu hiền khai cơ” và nội dung cúng là tạ ơn khai phá, cầu xin phò trợ mùa màng. Câu cầu khẩn phổ biến với thần thánh của người Miền Nam là “Quốc thới dân an, Phong điều vũ thuận”. Không có chuyện cầu xin tài lộc.

Dù xã hội đã chuyển sang kinh tế thị trường những giá trị truyền thống của Vía Đất vẫn còn nguyên vẹn. Cúng vía đất theo truyền thống sẽ kết nối hiện tại với lịch sử, con người và thiên nhiên, cá nhân và cộng đồng giúp người ta giữ niền tin tâm linh cân bằng, hài hòa hướng thiện.

Biến vía đất thành vía Thần Tài với vật cúng linh đình tốn kém, biến lòng tri ân và hài hòa thân thiện thành sự mua chuộc vụ lợi đất trời cho thấy văn hóa xã hội đang lún sâu vào cuộc đua tranh đoạt mê tín, con người tự đánh mất giá trị nhân văn.