Nhà thơ Bùi Hữu Nghĩa và những tác phẩm để đời

I. Những thông tin cơ bản về nhà thơ Bùi Hữu Nghĩa

Bùi Hữu Nghĩa 裴有義 (1807-1872) hiệu là Nghi Chi, người làng Long Tuyền, Bình Thuỷ, tỉnh Cần Thơ. Ông đỗ giải nguyên trường hương Gia Định năm 28 tuổi (1835, Minh Mạng 16) nên thường gọi là thủ khoa Nghĩa. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Tồn, con ông Nguyễn Văn Lý, là người mà ông Nghĩa ở trọ học.

Sau khi thi đậu, ông được bổ nhiệm làm tri huyện Phước Long, trấn Biên Hoà. Sau đó được thăng đi trấn nhậm phủ Trà Vang (Trà Vinh), tỉnh Vĩnh Long, dưới quyền tổng đốc Trương Văn Uyển và bố chánh Truyện. Tính ông cương trực, không luồn cúi, cũng không tư vị ai. Bấy giờ em vợ bố chánh Truyện cậy thế anh hay có thái độ hỗn xược, ông chẳng nể nang, một hôm cho đánh đòn. Vì thế ông bị bố chánh đem lòng thù và tìm dịp hãm hại. Trước đó, Nguyễn Ánh bị Tây Sơn đuổi, lương thực thường thiếu hụt, được người Thổ giúp đỡ, lại thêm một số lớn người Thổ tòng quân. Sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh nhớ ơn, xuống chiếu miễn thuế thuỷ lợi cho dân Thổ.

Sau đó, người Tàu lo lót với tổng đốc Uyển và bố chánh Truyện giành quyền đắp đập để khai thác. Các hương mục Thổ kéo nhau đến kiện ở dinh môn tri phủ Bùi Hữu Nghĩa, tri phủ xử rằng: “Việc tha thuế thuỷ lợi là ơn huệ của vua Thế Tổ ban cho dân Thổ, nay ai nhỏ hơn vua Thế Tổ mà đúng bán rạch ấy thì có chém đầu nó cũng không sao!”. Dân Thổ được lời xử ấy bèn phá đập của dân Tàu. Hai bên xảy ra huyết chiến, phía Tàu chết 8 người. Nhiều người Thổ bị bắt. Nhân đó, Tổng đốc và bố chánh Vĩnh Long cũng bắt cả thủ khoa Nghĩa giải về Gia Định, dâng sớ lên triều đình khép vào tội lạm phép giết người, phải xử chết.

Đứng trước nỗi oan tình của chồng, bà thủ khoa quyết lặn lội ra Huế minh oan cho chồng. Bấy giờ, Phan Thanh Giản đang là thượng thư bộ Lại. Bà thủ khoa tìm đến tư dinh ông để trình bày sự lộng quyền của các quan tỉnh Vĩnh Long, rồi đến Tam pháp ty khua ba hồi trống “kích cổ đăng văn”. Tam pháp ty gồm có quan viên cao cấp của bộ hình, Đô sát viện và Đại lý viện họp xử không có định kỳ, chỉ có những phiên bất thường để xét những vụ đặc biệt, mỗi vụ họp theo tiếng trống của người bị oan khuất tự đến gióng lên. Sớ của bà thủ khoa sau đó được dâng lên vua. Vua giao cho Tam pháp ty nghị án rồi chính vua phán chung thẩm như sau: “Tha tội tử hình cho Bùi Hữu Nghĩa, song phải quân tiền hiệu lực, lập công chuộc tội”. Bà Từ Dụ, mẹ vua Tự Đức, nghe tin này lấy làm cảm thương cho người liệt phụ đồng hương, bèn sai mời vào, ban cho một tấm biển chạm bốn chữ vàng “Liệt phụ khả gia”.

Cứu được chồng, bà từ giã kinh đô, quay về Biên Hoà, quê hương bà, ít lâu sau bị bệnh rồi mất. Thủ khoa Nghĩa, lúc đó đang trấn nhậm ở Châu Đốc, nghe tin bà mất, bèn vội về, nhưng khi về tới nhà thì việc tống táng đã xong bèn đọc bài văn tế có những câu thống thiết như sau:

Nơi kinh quốc mấy hồi trống dóng, biện bạch này oan nọ ức; đấng hiền lương mắt thấy thảy đau lòng;
Chốn tỉnh đường một tiếng hét vang, hẳn hỏi lẽ cánh lời nghiêm, lũ bằng đảng tai nghe đều mất vía.

Đôi liễn thờ vợ ông viết như sau:

Ngã bần, khanh năng trợ; ngã oan khanh năng minh, triều dã giai xưng khanh thị phụ.
Khanh bệnh, ngã bất dược, khanh tử ngã bất táng, giang sơn ưng tiếu ngã phi phu.

Tớ nghèo mình lo giúp, tớ oan mình lo kêu, chòm xóm điều khen mình đáng vợ;
Mình đau tớ chẳng nuôi, mình chết tớ chẳng táng, non sông thẹn phận tớ làm chồng .(Dịch đôi liễn thờ vợ)

II. Những bài thơ Bùi Hữu Nghĩa đặc sắc

Cùng nhau tham khảo những bài thơ hay của Bùi Hữu Nghĩa để thấu hiểu nỗi căm thù trong giặc ngoài của ông nói riêng của đồng bào dân tộc nói chung một thời, về nỗi đau mất vợ, mất con. Cả cuộc đời ông sống trong nhiều đau khổ, những vần thơ bao trùm sự tang thương, mất mát.

Ai Xui Tây Đến
Ai khiến thằng Tây tới vậy cà?
Đất bằng bỗng chốc nổi phong ba
Hẳn hoi ít mặt đền ơn nước,
Nháo nhác nhiều tay bận nỗi nhà
Đá sắt ôm lòng cam với trẻ
Nước non có mắt thấy cho già
Nam kì chi thiếu người trung nghĩa,
Báo quốc cần vương dễ một ta!

Bị giam ở Vĩnh Long
Nhượng chăng là nhượng kẻ cày voi
Lục lục thường tài cũng một mòi.
Mờ mịt bởi mây che bóng nguyệt,
Âm thầm vì trống lấp hơi còi.
Kìa câu ích kỷ kinh còn tạc,
Nọ kẻ khi nhân thánh hỡi roi.
Lẩn thẩn hết suy thì đế thới,
Ngày qua tháng lại bước đường thoi.

Đề nhà mộ vợ
Đã chẵn ba năm mới đặng thăm,
Màn loan đâu vắng bặt hơi tăm?
Gió đưa, đâu thấy hình dương liễu,
Đêm vắng, ai hoài tiếng sắt cầm.
Chồng nhớ vợ, lòng tơ bối rối,
Con thương mẹ luỵ ngọc tuôn dầm.
Có linh chín suối đừng xao lãng,
Thỉnh thoảng về thăm lúc tối tăm.

Đi Thuyền Qua Núi Sập
Một thuyền cầm hạc một mình ta
Đường hiểm gian nan khắp trải qua
Núi Sập sấm rền vang tiếng muỗi
Vàm Nao nước chảy đứt đuôi xà
Văn chương mới thử năm hay bảy
Võ lược chưa truyền sáu với ba
Gà gáy học đòi người dậy múa
Luống e năm tháng để ta đà

Đôi Đũa Bếp
Đã đẽo không nên cái búa voi,
Để làm đũa bếp nhắm ra mòi.
So lò ngũ đảnh chi sờn nóng,
Quấy vạc tam thai chẳng sợ còi.
Gặp cục than hồng đà sẵn gắp,
Giận con đòi dại khỏi cần roi.
Xông cơn nước lửa dư trăm trận,
Công nghiệp nay đà đáng mấy thoi.

Ngọa Binh Ngâm Thi
Ngàn vàng khôn dễ sánh mình này,
Sanh có ngày, âu thác có ngày.
Non nước hãy con đang bẩy bả,
Đất trời sao nỡ khiến lay vay.
Kho phong nguyệt vẫn chan chan đó,
Vườn cúc tòng còn thới thới đây.
Bịnh cũ vừa an, đành lại dậy,
Mặc dầu ngâm ngợi, mặc dầu say.

Ngũ Tử Tư Xuy Tiêu
Lạc loài nước bước đã trăm chiều,
Ngơ ngẩn nơi người một ống tiêu.
Trời Sở oán theo mây cuồn cuộn,
Đất Ngô buồn giục gió hiu hiu.
Tám ơn tơ tóc so dày mỏng,
Ngàn dặm non sông cám ít nhiều.
Cái bạn tri âm chưa gặp gỡ,
Thẹn thùng cuối giữa biết bao nhiêu.

Qua Hà Âm Cảm Tác
Mịt mịt mây đen kéo tối sầm,
Đau lòng thuở nọ chốn Hà Âm.
Đống xương vô định sương phau trắng,
Vũng máu phi thường cỏ nhuộm thâm.
Gió trốt dật dờ nơi chiến luỹ,
Đèn trời leo lét dặm u lâm.
Nghĩ thương con tạo sao dời đổi,
Dắng dỏi đêm trường tiếng dế ngâm.

Quan Công Thất Thủ Hạ Bì
Hạ Bì ngày nọ chẳng màng nào,
Gươm rụng thời ta dụng chước thao.
Chén rượu anh em keo gắn chặt,
Tấm gương tôi chúa đuốc dong cao.
Theo rồng chẳng phụ mây trời Hán,
Dưới ngựa đâu tham bạc đất Tào.
Trọng đạo cương thường vai gánh nặng,
Ngàn dặm thơm để miệng người rao.

Thà Gặp Cọp Chẳng Thà Gặp Bạn
Kết lũ năm ba bạn cặp kè,
Duyên đâu giải cấu khéo thè be.
Đã bưng bít mặt cùng trời đất,
Sao hổ hang lòng với ngựa xe.
Trẻ lẩn thẩn dạo qua đàng liễu,
Già lơ thơ ở dưới cỗi hoè.
Chào cũng ngỡ, không chào cũng ngỡ,
Hùm ở non cao há chẳng thè.

Thoại Sơn Tức Cảnh
Một thuyền cầm hạc một mình ta,
Đường hiểm gian nan khắp trải qua.
Núi Sập sấm rền vang tiếng muỗi,
Vàm Nao nước chảy đứt đuôi xà.
Văn chương mới thử năm hay bảy,
Võ lược chưa truyền sáu với ba.
Gà gáy học đòi người dậy múa,
Luống e năm tháng để sa đà.

Thợ Bạc
Lò tạo nghe ra thú cũng nhàn,
Chơi bời quên những khách giàu sang.
Dát, hàn theo thế hình long hổ,
Đậu, chạm dầu ai cách phụng loan.
Lắm thuở cầm cung day mũi bạc,
Từng phiên lên ngựa trải gan vàng.
Ra tài búa với oai lừng lẫy,
Nghề nghiệp lâu dài vững đặt an.

Thời Cuộc
Anh hùng sáu tỉnh thiếu chi đây,
Đâu để giang sơn đến thế này.
Ngọn lửa Tam Tần phừng đất cháy,
Chòm mây Ngũ quý lấp trời bay.
Hùm nương non rậm toan chờ thuở,
Cáo loạn vườn hoang thác có ngày.
Một góc cảm thương dân nước lửa,
Đền Nam trụ cả dễ lung lay!

Thu Cảm
Thu vũ liên hà giáp ngạn phồn,
Ngư ca ái ái náo tiền thôn.
Thiên biên nhất nhất hoành không lộ,
Giang thượng song song phá lãng đồn.
Cao thọ loạn dao phong tự chiến,
Lạc hoa bất tụ thuỷ như bôn.
Biên chu nhất trạo tri hà vãng,
Tháp thượng đàm tâm tửu mãn tôn.

Dịch nghĩa:
Cây sen gặp mưa thu nẩy nở liền bờ,
Tiếng hát thuyền chài vang lên ở xóm trước.
Bên trời từng chiếc cò bay ngang trên không.
Trên sông từng đôi cá heo vượt sóng.
Cây cao lay động lung tung gió như đánh trận,
Hoa rơi không tụ lại, nước như chạy.
Con thuyền chèo một mái không biết đi đâu,
Trên mui ngồi nói chuyện tâm sự, rượu đầy chén.


Thú Câu
Danh lợi màng bao chốn cửa hầu,
Thanh nhàn quen thú một nghề câu.
Giăng đường chỉ mảnh dòng khơi lộng,
Thả miếng mồi thơm vực cạn sâu.
Khói nước Ngũ hồ tình cả đẹp,
Gió trăng kho cũ cảnh riêng mầu.
Bá vương hội cả dầu chưa gặp,
Thao lược này ai biết đặng đâu?

Tự thuật kỳ 1
Tu mi thôi ngã lão,
Can phủ hướng thuỳ trần?
Vọng trị đồng xuân nhật,
Đoan cư lại Bắc thần.
Hôn mai phong kỷ độ,
Bành bái vũ kinh tuần.
Thế lộ nê đồ thậm,
Cuồng ca thả ẩm tần.

Dịch nghĩa:
Râu tóc bạc thêm như thúc giục ta già nhanh,
Gan ruột biết bày tỏ cùng ai?
Ước mong được cảnh thái bình mọi người cùng hưởng xuân,
Và nơi ta ở có sao Bắc Đẩu soi tới.
Đã mấy độ gió cuốn bụi mờ mịt,
Và mưa tuôn ròng rã, nghe tiếng vỗ của nước tràn
Đường thế sao lắm bùn lầy vậy,
Thôi cứ hát tràn và uống cho say.


Tự thuật kỳ 2
Vũ như thiên tự lậu,
Triều trướng thuỷ như bôn.
Thế lộ nê đồ thậm,
Viên trung thảo mãn phồn.
Văn lôi huyên chẩm điếm,
Oa cổ náo hoàng hôn.
Sương mấn thương trì mộ,
Tiêu sầu tửu nhất tôn.

Dịch nghĩa:
Mưa tuôn dường như trời bị thủng,
Triều lên nước chảy xiết như chạy.
Đường thế sao lắm bùn lầy vậy?
Trong vườn cỏ mọc um tùm.
Muỗi kêu như sấm dậy bên gối nệm,
Tiếng ếch như tiếng trống náo động buổi hoàng hôn.
Thấy tóc sương mà thương đời ta tàn lụi,
Để tiêu sầu dùng một chén rượu.


Tức sự
Dinh hư thế cuộc nãi kham cùng,
Lậu hạng thê trì tại thử trung.
Kỷ khắc ca tàn liên dạ vũ,
Nhất hồ chước bãi mãn giang phong.
Kính môn ngẫu đối tu thiêm bạch,
Hoa cảnh nhàn khan diện đới hồng.
An đắc sơn hà y cựu nhật,
Càn khôn tuý luý nhất tao ông.

Dịch nghĩa:
Việc nên hư trên đời không biết đâu là cùng,
Nơi ngõ quê này nương náu mãi lâu nay.
Tàn khúc ca đã mấy khắc mà đêm cứ mưa mãi,
Vừa chuốc xong một hồ rượu thì gió thổi đầy sông.
Vô tình soi gương thấy râu mình thêm bạc,
Thư thả xem hoa, mặt ửng màu hồng.
Ước gì non sông trở lại như ngày cũ,
Thì ta sẽ say tràn trời đất làm một thi ông.


Văn Tế Con Gái
Hỡi ôi!
Phải căn số ít duyên ít phước, thì không phứt cho rồi;
Uổng thân hình nên vế nên vai, mà mất như vậy đặng!
Giận bấy lão kiền khôn bạc ác, chòng chọc hắn không vì;
Hiềm thay con tạo hoá trớ trêu, mon men ta muốn mắng.

Nhớ linh xưa
Tánh rất thật thà;
Tình nên ngay thẳng.
Ăn chơi ở lở vốn không;
Đôi mách ngồi lê cũng chẳng.
Thảo với cha lành với mẹ, như bát nước ỷ không xao.
Ra cùng xóm ở cùng giềng, ước hột cơm đà chẳng cắn.
Chị hay niềm em hay nở, ai mà chẳng dấu chẳng yêu;
Ăn bữa trước lo bữa sau, mẹ đà khỏi dò khỏi dặn.
Tai quái bải buôi trối kệ, khôn lanh chẳng quá thật thà;
Lẳng lơ thừa thiếu mặc ai, khéo léo không bằng ngay thẳng;
Khi nào biết làm giọng ảnh, giọng e mà dức tớ, có giận thì la cái giống nọ lộn rồng;
Đời nào hay cầm cái roi cái vọt mà đánh em, có giận thì mắng cái thằng sao nó rắn.
Thấy con đẻ cha mừng đã hết lớn, mừng thì mừng mà dạ hãy băng sương;
Nghe con rên mẹ sợ một điếng hồn, sợ thì sợ chạy trời sao khỏi nắng.

Ôi!
Nước chảy hoa trôi;
Sao dời nguyệt lặn.
Nghiệp trăm năm từ ấy mà thôi;
Vàng ngàn lạng dễ mà cho đặng.
Nhớ tới tiếng con cười lời con thốt, càng thêm chua thêm xót đòi cơn;
Nhớ đến cách con đứng dáng con ngồi, luống để nhớ để thương từ chặng.
Đường ra ngõ vào còn đó, con đi đâu cho rêu cỏ mọc xanh;
Thúng may rổ vá còn đây, con đi đâu cho mốc meo đóng trắng.
Chưa có dâu nhờ một chút con;
Còn chàng rể, kể cho cái thẵng.
Dần dàn kể được bao lâu;
Giáp lại liền năm năm chẵn.
Có con biết không con cũng biết, đĩa muối dưa tạm đặt lưng vơi;
Sống cho khôn thác cũng cho khôn, tình sông biển dễ từ lạt mặn…

Văn Tế Nguyễn Thị Tồn
Hỡi ôi!
Gió Nữ phất phơ;
Mưa Ngâu lác đác.

Duyên bình thuỷ sum vầy đà tan rã, ngạt ngào bọt nước sóng xao;
Đuốc loan phòng tỏ rạng phút khêu lờ, sảng sốt ngọn đèn gió tạt.

Nhớ linh xưa:
Tánh đúc son vàng;
Tình không đen bạc.

Chen với nguyệt tròn hơn nguyệt, phòng khuê đà rực rỡ gương trong;
Ở trên trần mà chẳng nhuốm trần, vườn dâu khỏi lắm nhơ bụi cát.

Trong vấy màu bùn chẳng đục, những dự sang giàu, của trăm xe đưa rước vào màng;
Nghèo manh khố chuối mà thanh, phải duyên đằm thắm, cầu mấy nhịp xa xôi gánh vác.

Ở với mẹ đã trọn niềm hiếu hạnh, chìu lòng theo lân lý với anh em;
Lúc theo chồng vui biết chữ xướng tuỳ, đẹp đẽ với xóm giềng chú bác.

Ưa mùi đạo khuyên chồng nấu sử, nam tử may nợ nước đền bồi;
Thảo nhờ thân vẹn phận chưng lê, nữ công trọn giềng nhà gánh vác.

Trường khoa mục qua nong chí cả, ít nhiều đà rỡ mặt với non sông;
Nhà hàn vi hậu dốc tay nâng, may mắn đặng cất đầu cùng bạn tác.

Chồng vợ thảm đều không cha mẹ, em luống than phận lẻ loi;
Câu cô hoà một cửa anh em, tình vui thuận lời không chích mác.

Công danh lỡ vì mang bệnh quỉ, em chẳng phải vợ Mãi Thần ngày trước, thời chưa nên làm thói dể duôi;
Khó hèn cam nào dám trách trời, bậu chẳng như vợ Tô Tần ngày nọ, vận chưa đạt mà đem lòng khi bạc.

Phận khó khăn yếu đuối, vóc liễu bồ dầu dãi nắng mưa;
Con nhỏ dại thơ ngây, tay chủ quỉ không rời thước tấc.

Ở theo thời, làm theo thế, qua khỏi tuần sấm đất tan bia;
Bay kịp chúng, nhảy kịp thời mới đặng hưởng gió thần đưa các.

Nghiệp tiên thế anh lo gây dựng, mừng thầm đà mở mặt với hương lân;
Đạo thánh hiền bậu dốc khuyến dương, gắn bó đã nên gương cùng hậu giác.

Ăn cần ở kiệm, giàu không khoe, khó cũng không đua;
Mua nghĩa chác nhơn, trước chẳng phai sau chẳng lạt.

Chữ thê tùng phu quý em nan than chẳng nhờ của cũng nhờ công;
Câu phụ tác tử thừa bậu nong nả chưa nên vai đà nên vác.

Ốc đà hết lúc gian truân;
Hay chưa tới chừng hanh đạt.

Bỗng đâu khiến gió day mưa tạt, non hoa hạc lánh trầm trầm;
Nào hay nỗi vật đổi sao dời, cửa sổ ngựa qua thoát thoát.

Ôi!
Sông Lệ vàng chìm;
Non Côn ngọc nát.

Cảnh giai lão trách lòng trời đất, khó có nhau giàu cũng có nhau;
Quỉ vô thường làm cuộc bể dâu, vật tráo chác người sao tráo chác.

Con cháu tuổi thơ ngây một bóng, em bào đành nhắm mắt tầm tiên;
Chồng trăm bề lo lắng một mình, bậu bao nỡ sấp lưng cưỡi hạc.

Ai mượn lão Diêm phù rước khách, mẹ lìa con vì gã ức oan;
Ai mượn ngươi Quỷ bá đưa người, chồng xa vợ ở ngươi nên bạc ác.

Chữ “đại đức tất đắc kỳ thọ” đọc tới phát buồn;
Câu “tích phước tất hữu dư khương” nghe càng thêm lạt.

Qua bể bậu chẳng bằng tiền đũa, phận phân gương chẳng kịp nửa giờ;
Trời giết người chi sá gươm đao, chứng nghèo ngặt không đầy một lát.

Đêm khuya hãy nâng niu một trẻ, nghĩ từ cơn, ruột tợ kim châm;
Ngày ra nào vắng vẻ không em, nhớ từ chặn, gan dường muối xát.

Cuộc long hổ lấp rồi ba tấc đất, ôi thôi rồi má phấn hồng nhan;
Bạn phụng loan phân rẽ một phương trời, lo đáo để duyên đơn phận bạc.

Đã biết kiếp thác là kiếp mất, tấm lòng thành đủ bảy tuần chay;
Cho hay người mất mà nghĩa còn, thô lễ tế vài mâm mặn lạt.

Hỡi ôi, tiếc thay!
Hỡi ôi, tiếc thay!

Nguyễn Thị Tồn tức vợ tác giả. Có sách chép bài văn tế có thêm hai câu sau đây:

Nơi kính quốc mấy hồi trống gióng, biện bạch này oan nọ ức, đứng hiền lương mắt thấy thảy đau lòng;
Chốn tỉnh đường một tiếng hét vang, hẳn hoi lẽ lời nghiêm, lũ bằng đảng tai nghe đà mất vía.

Văn Tế Vợ
Hỡi ơi!
Xưa nay đặng mấy người trọn vẹn, phận sắc tài hằng phải luỵ cái thân;
Vợ chồng mà ghe nỗi mặn nồng, cơn sanh tử ỷ khôn ngăn giọt lệ.

Từ thuở bậu vầy duyên can hệ, may mắn nhờ đủ mẹ đủ cha, thời em nâng niu dâng quỳ xẻ áo, thảo mẹ cha không nửa khắc lãng xoa;
Từ ngày anh mắc chốn gian truân, tơi bời có một vợ một chồng, thời em đặng đột buôn tảo bán tần, niềm chồng vợ ấy cũng đã phu phỉ.

Rất họ hàng còn cũng biết thương;
Huống trời đất có đâu chẳng nghĩ.

Ơn vũ lộ lộng khơi mà bủa xuống, tay chống chở đổi làm đồng vác, khi ấy hãy mang con trong dạ, bận bịu xin theo chốn sa trường;
Cuộc phong lôi tin tức hãy chưa thông, quế phi dung luống chịu nắng mưa, con trứ đành bồng trẻ xuống thuyền, lặn mọc quyết tầm nơi chiến địa.

Hiệp tan khi ấy rất gay go;
Ân ái đoạn này thêm thấm thía.

Hay đâu nỗi dây oán thù lại kết, anh vớ thử tay con tạo hoá, dầu những cánh trùng gan chuột, một chút nào nghĩ dạ Trang sinh;
Bỗng phút chốc buồm tình ái kịp buông, anh lo vì gánh nặng cang thường, chi sờn vuốt biển nanh trời, chín tầng quyết trắng mình Trương thị!

Nơi kinh quốc ba hồi trống gióng, biện bạch này oan nọ ức, đáng hiền lương mắt thấy thảy đau lòng;
Giữa tính đường lẽ chánh lời nghiêm… đứa bạn đảng tai nghe đều hết vía.

Líu lo tuy cuộc thế chưa xong;
Trọn vẹn ỷ vì chồng khốn ví.

Lúc anh vụt về thăm cha mẹ, để lời dặn em đừng rủn chí, việc ở ăn lo đà sẵn cả, mới trở lưng xuống bến sụt sùi;
Nay sao đành bỏ cả chồng con, nghe đặng tin anh xiết kinh hoàng, nỗi tới lui không biết dường bao, luống ngửa mặt lên trời van vỉ.

Cây dương liễu là tên ly biệt, trời dành cho em những điều tài sắc, mà mong sửa cuộc đoàn viên;
Huê phù dung là giống đoạn tràng, trời sắm cho em những miếng thanh danh, mà mỡ báo nền phước lý.

Anh để nàng chẳng bằng tiền bằng của, mà bằng cái tư lương;
Anh giết nàng chẳng bằng gươm bằng đao, mà bằng cái khổ luỵ.

Ôi!
Gương ân ái không mài mà lẻm lẻm, người ta mặn nồng chồng vợ, bao đành dứt mối tình duyên;
Ngựa quang âm không dậm bỗng đùng đùng, người ta mắc cuộc tai nàn, sao nỡ dứt đường sinh tử.

Phụng lìa đôi chếch mác, đừng nói sửa sang giềng mối, khi túng thiếu manh quần tấm áo, biết lấy ai mà cậy nhờ;
Gà mất mẹ chít chiu, đừng nói nhắc biểu học hành, khi lạt thèm miếng bánh đồng hàng, biết theo ai mà thỏ thẻ.

May nhờ có ngoại gia nương cậy, sống đặng nhờ thác cũng đặng nhờ;
Luống trông cho cuộc thế xong xuôi, sớm chẳng thấy mai đều chẳng thấy.

Phải chi em chưa thoát nơi trần tục, nỗi oán thù sớm đặng sạch chùi;
Phải chi em chưa lên chốn non tiên, đứa bạn đảng dám đâu lừng lẫy!

Phước nhà đặng rảnh mình cao sĩ, vượt mấy sông em dắt chút mẹ già;
Màn loan sao vắng dạng tiên nga, vầy một ngõ anh khóc cùng ba trẻ.

Thơ từ biệt anh ngâm vài chập, đặng tỏ qua tấm dạ bi thương;
Rượu chung tình anh rót vài ly, ngỏ cùng bậu tất lòng chung thuỷ.

Vịnh Cây Bần
Cao lớn làm chi bần hởi bần?
Uổng sanh trong thế đứng chần ngần!
Lá xanh tợ liễu, nhành thư thớt,
Bông bạc dường mai, nhuỵ sượng sần.
Quyến luyến bầy cò theo sập sận,
Chiêu quy đoàn khỉ tới dần lân.
Rường soi cột trổ chưa nên mặt,
Cao lớn làm chi bần hởi bần.

Vịnh Cây Vông
Uổng sanh trong thế mấy thu đông?
Cao lớn làm chi vông hỡi vông?
Da thịt càng già, già lộp xộp,
Ruột gan chẳng có, có gai chông.
Rường soi cột trổ chưa nên mặt,
Giậu mỏng rào thưa phải dụng lòng.
Mới biết cây nào sanh giống nấy,
Xuân qua bốn tốn cũng đơm bông.

Vĩnh Thông đồn trấn
Độc toạ cao lâu tứ tiễu nhiên,
Thiên không, dã khoáng, thảo thiên nhiên.
Giang biên phàm quá cô thôn vũ,
Lĩnh ngoại xa hồi viễn thọ yên.
Mộ sắc sổ gian ỷ trúc luỹ,
Ca thanh nhất đạo tái bồ thuyền.
Tu mi tự đắc bá phu trưởng,
Tái thượng sa đà niên hựu niên.

Dịch nghĩa:
Một mình ngồi trên lầu cao, ý tứ bâng khuâng
Trời trong, đồng ruộng, cỏ xanh tốt.
Dọc bờ sông cánh bướm lướt qua mưa nơi xóm vắng,
Ngoài núi xe về trong đám khói trên cây xa.
Trong sắc chiều mấy gian nhà trại tựa vào luỹ tre,
Tiếng hát chở trên thuyền mui lau vang lên theo một đường.
Kẻ mày râu lấy làm đắc chí hơn được nhiều người,
Thế mà phải lần lữa ở cửa ải hết năm này đến năm khác.