Nguyễn Du tìm đường vào Gia Định

Đáng kinh ngạc trước tầm viễn kiến lịch sử của một sĩ phu Bắc hà: Nguyễn Du tìm đường vào Gia Định để theo phò Nguyễn Ánh!

Ắt nhiều người trong quí bạn sẽ phải bất ngờ, vâng, NGUYỄN DU - mà hậu thế biết tới ông là một đại thi hào - đã không chịu bị “trói” trong nếp nghĩ thủ cựu như phần đông sĩ phu Bắc hà.

I/ MỘT QUYẾT ĐỊNH DŨNG CẢM!

Nguyễn Du (阮 攸), sinh năm 1766 tại Tiên Điền, Nghi Xuân thuộc Hà Tĩnh. Thân phụ của ông là Nguyễn Nghiễm làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng) của triều đình Thăng Long! Chưa kể hai người anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản làm Thượng thư bộ Lại kiêm trấn thủ Hưng Hóa (Thái Nguyên), và Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây.

Gia thế của Nguyễn Du, như vậy, thuộc hàng danh gia vọng tộc, rạng rỡ quyền uy trong triều đình Thăng Long.

Dưới thời Tây Sơn (sau khi kết liễu triều đình Thăng Long vào mùa xuân Kỷ Dậu 1789), một người anh của Nguyễn Du là Nguyễn Đề được làm thái sử Viện Cơ mật tại kinh đô Phú Xuân.

Chốn quan trường, với mối liên hệ gia tộc, mở ra trước mắt Nguyễn Du.

NHƯNG vào năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du tìm đường để vào tận Gia Định của miền Nam theo phò chúa Nguyễn Phước Ánh 阮 福 暎 (sau này là vua Gia Long)! Chẳng may ông bị phát hiện, bị tống vào nhà giam ở Nghệ An.

Đi theo Nguyễn Phước Ánh trong Nam, dưới mắt nhìn của nhiều sĩ phu của Thăng Long, là đi theo ngụy triều.

Đi theo Nguyễn Phước Ánh, dưới mắt nhìn Tây Sơn, là đi theo giặc, theo kẻ thù. Bị bắt, có thể bị xử tử.

Thời may Nguyễn Du chỉ bị nằm khám, sau đó ông được thả, buộc trở về quê nhà Tiên Điền.

Tại sao một sĩ phu Bắc hà như NGUYỄN DU không chịu theo phò nhà Tây Sơn đang thời làm mưa làm gió? Tại sao ông không chịu uốn mình như phần đông trí thức ngoài Bắc để đua chen bổng lộc nơi chốn đô hội Thăng Long?

II/ KHÔNG CHẤP NHẬN “ĂN MÀY DĨ VÃNG”

Lúc Nguyễn Du mạo hiểm, đánh cược sinh mệnh của ông cho một sự chọn lựa chánh trị - năm 1796, bấy giờ vua Quang Toản nắm ngôi (sau khi thân phụ là Hoàng đế Quang Trung tạ thế 1792). Uy danh của nhà Tây Sơn lên cao sau đại thắng quân Thanh.

Tuy nhiên, tài năng và công trạng là bởi Quang Trung, hậu duệ không thể dựa vào đó để “ăn mày dĩ vãng”!

Mang danh kẻ sĩ thì lại càng không thể ngoái mắt nhìn trở ngược quá khứ để biện chính cho vai trò chính quyền đương thời. Tầm nhìn của nguyên thủ (ở đây là vua Quang Toản) có đáng để cho giới sĩ phu đổ công đổ sức hậu thuẫn hay không.

III/ TẦM VIỄN KIẾN LỊCH SỬ ĐÁNG NỂ CỦA NGUYỄN DU

Giữa lúc nhiều trí thức xênh xang áo mão làm quan, Nguyễn Du - kẻ sĩ “ưu thời mẫn thế” - đã nhìn thấy tương lai của nước Việt sẽ nằm nơi minh chủ Nguyễn Ánh. Quả nhiên, sau này, Nguyễn Ánh thâu tóm giang san về một mối, lập ra quốc gia mang tên mới là: VIỆT NAM!

  1. Vào thời điểm 1796 khi Nguyễn Du tìm đường vào Nam, ông và giới trí thức đều đã biết đến một sự kiện trước đó hơn mươi năm (năm 1784): Nguyễn Ánh cầu viện vua Xiêm La cử Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn thủy quân vào trợ giúp.

    Giới quan lại của Thăng Long kết án Nguyễn Ánh đi nhờ ngoại viện nơi Xiêm La. Mỉa mai thay, chính triều đình Thăng Long chớ không ai khác từng rước 2 vạn quân Thanh.

    Rước Tàu, phò Tàu mà “cao đạo” được với ai, vênh vang cái giống gì - ngoài cái trò lừa bịp!

  2. Trong tranh chấp võ lực, việc liên minh/viện trợ ra sao, lúc nào... thuộc về kế sách nằm lòng của kẻ cầm quân, chẳng phải thời hiện nay, thời xưa cũng vậy. Như có lúc Nguyễn Ánh liên minh với Xiêm La (nay gọi Thái Lan), để đương đầu Tây Sơn liên minh với Chân Lạp (nay gọi Cambodia).

    Cái chính yếu là một khi thành công, sự liên minh đó có phải trả cái giá đắt cho nền độc lập hay không. Người lãnh đạo giỏi là họ biết “hóa giải” ân đền oán trả, đồng thời giữ gìn được nền độc lập.

  3. Nguyễn Ánh chỉ cậy Xiêm La một lần duy nhứt, vì ông nhận ra quân Xiêm làm nhiều điều xằng bậy với dân chúng ở miền Nam. Thành thử khi vua Xiêm có ý định cho mượn quân lần nữa, vào năm 1786, NHƯNG Nguyễn Ánh nhứt quyết từ chối (chớ nếu có dụng tâm “cõng rắn cắn gà nhà” thì dại gì không mượn tay Xiêm).

    Năm 1787, Nguyễn Ánh cùng tùy tùng đã lẳng lặng rời khỏi Xiêm La, trở về châu thổ đồng bằng sông Cửu Long để tìm cách phục hồi cơ nghiệp tiền nhân (9 đời Chúa Nguyễn dựng xây Đàng Trong).

  4. Nguyễn Du đã có thời gian để nghiền ngẫm về quá trình xây dựng Gia Định của Nguyễn Ánh:

    Chỉ trong mấy năm ngắn ngủi, từ năm 1789, Nguyễn Ánh đưa ra những chính sách cải cách nông nghiệp - như “ngụ binh ư nông”, những mảnh đất khẩn hoang được miễn thuế trong ba năm đầu... khiến cho sản xuất lúa gạo ở đồng bằng Cửu Long tăng cao sản lượng.

    Thêm vào đó, chính sách “tự trị” trong phạm vi hẹp cũng được Nguyễn Ánh khuyến khích: chức “Lâm ngũ quan” trong cộng đồng người Hoa, “Ốc Nha” trong cộng đồng người Khmer đều do người Hoa, Khmer cai quản.

    Dân chúng miền Nam hậu thuẫn cho Nguyễn Ánh ngày càng nhiều hơn, là bởi một số chính sách nêu trên.

    Tương lai được nhìn thấy trên “vầng trán” Gia Định. Và, do vậy, Nguyễn Ánh xứng đáng trở thành minh chủ để Nguyễn Du - một kẻ sĩ Hà Tĩnh - hậu thuẫn.

IV/

Hoàng đế Gia Long mến tài và kính trọng: năm Ất Sửu (1805) nhà vua mời Nguyễn Du làm Đông các đại học sĩ, nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân.

Năm Quý Dậu (1813), Nguyễn Du được thăng Cần chánh điện học sĩ, và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh.

NGUYỄN DU không chỉ là một trí thức trong thơ ca, mà ông còn là một trí thức trong ngành giáo dục, một trí thức lịch lãm trong ngành ngoại giao.

______________________

Còn việc “cầu viện Pháp” của Nguyễn Ánh? Đọc kỹ sử, mới biết Pháp không có vai trò “nặng ký” gì ráo. Để viết trong bài khác.


Hoàng đế Gia Long.


Lăng Gia Long.


Đường lên lăng Gia Long.


Nguyễn Du.