Vị trí của Đồng Nai Cửu Long trong lục địa Đông Nam Á

Ngày nay khi nói “Đông Nam Á” (Southeast Asia) là người tanghĩ đến vùng địa lý bao gồm cácnước: Miến Điện (Myanmar), Thái Lan, Mả Lai,Miên (Cambodia), Lào, Việt Nam, Nam Dương, Phi Luật Tân,Singapore, và Brunei. Trong 10 nước vừa kể có mộtquốc gia rất quan trọng nhưng có diện tíchrất nhỏ, không hơn một thành phố lớn,đó là Singapore,  và một quốc gia khác rất ítđược biết đến, nằm trong NamDương quần đảo, với dân số khônghơn nửa triệu đó là Brunei Darussalam. Rồi saunăm 1999 lại có thêm quốc gia East Timor cũng thuộcNam Dương quần đảo, vừa đượctách ra sau một cuộc trưng cầu dân ý, vớimột dân số chưa tới một triệu (khoảng800 ngàn dân). Người ta thường phân biệt hai khuvực khác biệt của cả vùng Đông Nam Á: khuvực lục địa (đất liền), và khuvực quần đảo hay đại dương.Phần lục địa bao gồm các nướcMiến Điện, Thái Lan, một phần của MảLai, Singapore, Miên, Lào và Việt Nam. Vùng đạidương bao gồm Nam Dương, Phi Luật Tân,một phần khác của Mả Lai, East Timor và Brunei. Hai khuvực này, trên 10 ngàn năm trước khi còn thờibăng giá, lúc nước biển còn thấp, đềucùng nằm trên một dãy đất liền với nhau chonên các loại cây cỏ, muông thú đều giống nhau.Hết thời băng giá, nước biển dâng lên caodần, tách rời vùng quần đảo ra khỏi vùngđất liền làm thành hai khu vực khác nhau như ngàynay.

Về phương diện địa lý vàvăn hóa, Đông Nam Á trên đất liền hay Đông NamÁ Lục Địa, nằm giữa hai nước lớn,và giữa hai nền văn hóa xuất phát từ hainước đó là Trung Hoa và Ấn Độ. Đây là haicái nôi văn hóa lớn của Á Châu và khu vực Đông NamÁ Lục Địa nằm giữa hai cái nôi văn hóalớn đó. Địa danh đúng của khu vực này làIndo-China (Ấn-Trung) hay Indochinese Peninsula (Bán ĐảoẤn Trung), nghĩa là vùng bán đảo nằm giữaẤn Độ và Trung Hoa. Nhưng vì người Phápđã dùng chữ Indochina (mà người Việtthường dịch là Đông Dương) thu hẹpđể chỉ ba nước Việt, Miên, Lào,dưới sự đô hộ của họ thành ra các nhàvăn hóa học đã không dùng lai địa danh này chocả vùng mà phải dùng chữ Đông Nam Á để tránhlầm lẫn. Thời xưa người ta còn gọi vùngnày là “Golden Peninsula” (Bán Đảo Hoàng Kim) và bao gồm cácnước Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cambodia, vàViệt Nam, không có Mả Lai trong đó, vì Mả Lai đượcxem là thuộc về khu vực quần đảo. Cácnước nằm trong khu vực Bán Đảo Hoàng Kim hayBán Đảo Ấn Trung này đều ít nhiều chịu ảnhhưởng của một trong hai nền văn hóa lớnở đây là Ấn Độ và Trung Hoa. Theo nhiều nhàvăn hóa học Tây phương thì các nước Miến Điện,Thái Lan, Lào và Cambodia nhận ảnh hưởng ẤnĐộ trong khi Việt Nam nhân ảnh hưởng TrungHoa nhiều hơn. Các nước chịu ảnhhưởng Ấn Độ thường đượcgọi là “Indianized States”(các nước Ấn Hóa).

Ấn Trung (Indochina) theo đúng nghĩa BánĐảo Ấn Trung (Indochinese Peninsula) là điểmgặp gỡ của nhiều giống dân khác nhau, vachạm nhau, pha trộn nhau, và từ xa xưa là nơi hainền văn hóa chính của Á Châu đụng đầunhau. Ở khu vực Ấn Trung hai nền văn hóa nàybiến đổi ít nhiều khi chúng tiếp xúc với xãhội bản địa. Văn hóa kết quả củanhững biến đổi đó sau này lạiđược biến cải thêm do những ảnhhưởng ngoại lai như Phật giáo từ Tích Lan, vàvăn minh Âu châu. [“. . . Indochina, in the sense of the IndochinesePeninsula. . . is a crossroads where the most diverse racial groups came intocontact with each other and mixed with each other, and where since ancienttimes the two main civilizations of Asia have confronted each other. InIndochina these civilizations were transformed, in varying degrees, throughcontact with the indegenous societies, and the civilizatins resulting from thiscontact reacted upon each other and were subsequently enriched or changed bylater influence from abroad, such as Buddhism from Ceylon, and Europeancivilization.”, Georges Coedès, The Making of South EastAsia.]    

Bán Đảo Ấn Trung hay LụcĐịa Đông Nam Á là vùng đất phức tạp, cónhiều quốc gia khác biệt về địa hình,đất đai, dân tộc và văn hóa. Tuy nhiêndưới bề ngoài nhiều khác biệt đó, khingược dòng lịch sử người ta có thể tìmthấy ở bề sâu có sự tương cậngiữa các quốc gia này về địa lý và văn hóa.Hầu hết các nước này( Miến Điện, TháiLan, Miên, Lào, Việt Nam) đều nằm trong vùng nhiệtđới, chịu ảnh hưởng nặng nềcủa Châu Á gió mùa. Phần đông dân chúng ở cácnước này đều sống về nghề nông và chiathành hai nhóm, nhóm trồng lúa nước ở nhữngruộng thấp (thảo điền), và nhóm dân tộcthiểu số làm ruộng rẩy trên vùng đất cao(sơn điền). Về tín ngưởng phần đôngdân chúng ở vùng đất thấp theo Phật giáo.Đời sống của con người ở đây tùythuộc rất nhiều ở mùa mưa lủ và nhữngsông rạch chằng chịt. Những con sông lớn nhưsông Irrawady và Salween ở Miến Điện, sông Chao Phrayaở Thái Lan, sông Hồng ở Bắc Việt, và sông Mekongở đất Lào, Miên và Việt Nam, cùng với bao nhiêukinh rạch khác là những hệ thống giao thông vô cùngtiện lợi, lại là hệ thống cung cấpnước đầy đủ cho các cánh đồngruộng cũng như vườn tượt quanh năm,và hơn nữa còn là nguồn cung cấp tôm cá thật phongphú cho đời sống con ngưới. Có thể nói sôngnước là mạch sống của người dân BánĐảo Ấn Trung ở vùng đất thấp. Điđâu người ta cũng gặp đượcnhững ruộng lúa xinh tươi, những khuvườn cây trái dủ loại của vùng nhiệtđới, những bửa ăn có cơm làm món chánhvới đồ ăn nhiều gia vị.

Bán Đảo Ấn Trung là vùng gặpgỡ qua lại của những đường giaothương quốc tế ngay từ đầu thiên niênkỷ thứ nhất, giữa Ấn Độ và Trung Hoa,và sau này trong các thế kỷ gần đây giữanhiều nước Âu Tây, và Á Châu. Các tôn giáo lớn trênthế giới đều có dấu ấn ở trong vùng:Phật giáo Tiểu Thừa ảnh hưởng xuốngphía Nam qua các nước Ấn hóa. Phật giáo ĐạiThừa ảnh hưởng ở phía Bắc đếnViệt Nam, pha trộn với Lão giáo và Khổng giáo.(Hồi giáo chỉ có mặt nhiều ở bán đảoMả Lai). Thiên Chúa giáo có mặt sau này ở nhiềunước (nhưng là tôn giáo số một của PhiLuật Tân). Bên cạnh các tôn giáo lớn, tín ngưởngbình dân và sự thờ cúng ông bà vẫn đượcnhiều người theo đuổi. Người ĐôngNam Á có cách xưng hô đặc biệt gắn liềnvới địa vị của mỗi cá nhân trong giađình hay ngoài xã hội, chớ không dùng nhữngđại danh từ tổng quát như người Âu Tây.Địa vị của người phụ nữ ởđây cũng có phần quan trọng không kém đàn ông.Họ có nhiều tự do, có quyền sở hữu, cóthể tham gia trong các ngành hoạt động và có thểlàm vua (ở thời xưa). Bà con hai bên nội ngoạiđược xem như nhau, không có sự khinh trọng giữabên ngoại và bên nội.

Vị trí đặc biệt của cảvùng Đông Nam Á cũng như một số sản phẩmhiếm có của nó và nhất là tình trạng chậmtiến của các nước trong vùng hồi thếkỷ XVIII – XIX so với các nước Tây phương,đã làm cho vùng này trở thành miếng mồi ngon cho cácnước tư bản tiến bộ trên thếgiới. Công cuộc đánh chiếm và đô hộ cảvùng, ngoại trừ Thái Lan, của các nước tiềntiến Tây phương như, Anh, Pháp, Y Pha Nho, Hà Lan,Mỹ khởi sự từ thế kỷ XVI kéo dàiđến hết đại chiến Thế GiớiThứ Hai, để lại nhiều vết tích và ảnhhưởng văn hóa ở đây. Phi Luật Tân, NamDương và bán đảo Mả Lai đã bị Y Pha Nho(rồi Mỹ), Hà Lan, và Anh xăm chiếm từ thế kỷXVIII. Riêng các nước trong Bán Đảo Ấn Trung thìAnh và Pháp tấn công, đô hộ từ giữa thếkỷ XIX. Phần lớn những đường ranhgiới phân chia các nước trong Bán Đảo ẤnTrung là những đường ranh giới do cácnước đô hộ ấn định mới đâysau khi họ đặt xong nền đô hộ củahọ. Việc ấn định ranh giới này chỉtựa trên quyền lợi và tình trạng hiện hữucủa chính quyền đô hộ hồi lúc đó chớkhông tựa trên những yếu tố lịch sử, hayđịa lý gì  cả của các nước liênhệ. Thật sự thì trước đóđường ranh giới giữa các nước trong vùngrất mơ hồ, co giản, không có một ấnđịnh rõ ràng nào.

Sự đô hộ của Tây phươnglà yếu tố khá quan trọng góp phần vào việc chiacách các quốc gia Đông Nam Á bởi ảnh hưởngkhác nhau của các nước đô hộ. MiếnĐiện và Mả Lai chịu ảnh hưởng vănminh Anh trong khi Việt Miên Lào học hỏi văn minh Pháp,Phi Luật Tân bị ảnh hưởng Y Pha Nho và Mỹtrong khi Nam Dương phần nhiều chịu ảnhhưởng Hà Lan. Trước khi có ảnh hưởng Tâyphương ở vùng này chỉ có ảnh hưởngẤn Độ trên các nước Ấn hóa và ảnh hưởngTrung Hoa trên phần đất Việt Nam. Riêngtrường hợp Việt Nam thì đặc biệthơn cả. Các nhà văn hóa nhân loại học nhậnthấy dân tộc Việt, trên đà phát triển vănhóa, đã đi theo một con đường khác hẳncon đường mà các nước khác ở LụcĐịa Đông Nam Á đã đi.  Trong khi cácnước khác theo văn minh Ấn Độ (IndianizedStates) thì Việt Nam lại theo truyền thống văn hóaTrung Hoa (Sinicized State). Nhưng, tuy là (từ xưa) ViệtNam thuộc hệ thống văn hóa Á Đông (East Asia)hơn là hệ thống văn hóa Đông Nam Á (Southeast Asia),người Việt Nam đã thích nghi vào môi trườngĐông Nam Á (từ thế kỷ XVII) – không phải chỉthích nghi vào môi trường tự nhiên vùng nhiệtđới và ảnh hưởng gió mùa mà còn thích nghi vàocả môi trường xã hội nữa. Trải qua bao nhiêuthế kỷ người Việt Nam đã có nhiều liênhệ với các sắc tộc thiểu số miền núiở Đông Nam Á, với dân tộc Chàm, và dân Khmer, vànhiều dân tộc Thái. Chính sự thích nghi của cáivăn hóa chịu ảnh hưởng truyền thốngTrung Hoa vào môi trường văn hóa Đông Nam Á làm chovăn hóa Việt Nam có màu sắc đặc thù củanó.  [“The course of cultural development followed by the Vietnamese hasbeen markedly different from that of their neighbors in mainland SoutheastAsia. Whereas the other civilizations of Southeast Asia drew their inspirationfrom India, the Vietnamese have drawn theirs from the great tradition of China.Yet, while belonging culturally to the East Asian rather than the SoutheastAsian world, the Vietnamese have adapted  themselves to a Southeast Asianenvironment – not only the natural one with its tropical and monsoonalfeatures, but also a social one. Over the centuries, the Vietnamese have hadintensive relations with Southeast Asian hill peoples, with the Chams and theKhmer, and with various Tai peoples. It is the adaptation of a Chinese-derivedcultural tradition to a Southeast Asian environment that has given theVietnamese tradition its didtinctive cast.” Charles F. Keyes, The GoldenPeninsula, Culture and Adaptation in Mainland SoutheastAsia.]      

  Càng đến gần thế kỷ XXvà càng đi xa về phía Nam người ta càng thấyvăn hóa Việt Nam xa dần truyền thống văn hóaViệt-Trung để đến gần văn hóa LụcĐịa Đông Nam Á, bởi vị trí đặcbiệt về địa lý, lịch sử và xã hộicủa nó. Vị trí địa lý cho thấy Việt Nammột mặt thuộc về khu vực Á Đông (bao gồmcác nước Trung Hoa, Triều Tiên , Nhật Bản) vàmặt khác thuộc khu vực Nam Á (gồm các các quầnđảo Nam Dương, Phi Luật Tân, bán đảoMả Lai, Thái Lan, Miến điện, Ấn Độ,Tích Lan, v v . . ). Về phương diện lịch sửViệt Nam có thể chia thành hai khu vực khác nhau. Mộtkhu vực cũ đã có từ mấy ngàn nămtrước, và một khu vực mới chỉ mớithành hình từ thế kỷ XVII trở đi. Tên dành cho haikhu vực này là Đàng Ngoài (hay phía Bắc của sông Gianh)và Đàng Trong (hay phía Nam của sông Gianh) kể từ lúc cósự tách rời và trở thành độc lập củaChúa Nguyễn ở Phương Nam ra khỏi sự chuyênquyền của Chúa Trịnh ở Phương Bắc.Về phương diện văn hóa người ta cũngcó thể thấy sự khác biệt giữa văn hóaViệt cổ truyền ở Miền Bắc vớivăn hóa mới ở Miền Nam. Sự khác biệt vềvăn hóa giữa Phương Bắc (Đàng Ngoài) vàPhương Nam (Đàng Trong) cho thấy có sự biếnđổi trong văn hóa Việt Nam từ Thăng Long hayHà Nội vào Sài Gòn. Làng xã không ranh giới của MiềnNam gần với xã thôn của các quốc gia trong BánĐảo Ấn Trung hơn làng xã ở Bắc Việt. Tôngiáo, tín ngưởng ở Miền Nam thu nhận nhiềuyếu tố mới của tôn giáo tín ngưởng củacác xứ Ấn Hóa (Chàm, Miên, Thái Lan) khác hơn tôn giáo tínngưởng chịu nhiều ảnh hưởng Trung Hoacủa Miền Bắc. Đời sống kinh tế, xãhội của người Việt ở vùng ĐồngNai Cửu Long mang tính cách Đông Nam Á nhiều hơnđời sống kinh tế xã hội của ngườidân Bắc Việt. Môi trường sinh sống mới vàsự tiếp xúc với những nền văn hóa khác lànhững điều kiện cần yếu đưađến những biến đổi đó. Trướchết là môi trường thiên nhiên vật lý: đấtđai, khí hậu, ruộng nương, vườntượt ở đây cùng một loại vớiđất đai, khí hậu, ruộng nươngvườn tượt ở Kampuchia, Thái Lan, Mả Lai,thành ra các loại cây trái giống nhau, kỷ thuật làmruộng, làm vườn, trồng cây trái cũng giốngnhau. Cuộc sống vật chất ở nhà quê do đócũng rất giống nhau. Người lưu dân Việtvào môi trường sinh sống này không thể không linhđộng thay đổi để thích ứng với môitrường sinh sống mới. Mặt khác ở trong hoàncảnh sinh sống mới này họ lại gần gũivới những dân tộc khác với nền văn hóa khácmà lâu dần, quen dần, họ không thể không vaymượn một số nét đặc thù nào đó màhọ thấy cần yếu hay thích hợp với họtrong hoàn cảnh sinh sống mới. Thành ra từ khiNguyễn Hoàng vào Thuận Hóa và các chúa Nguyễn nốitiếp, xây dựng nên Đàng Trong thì bắt đầu cómột nhánh văn hóa Việt biến dạng dầndần trở thành một chi nhánh văn hóa có phần khácbiệt với văn hóa cổ truyền ở miền Bắc.Sự cắt đứt liên hệ chính trị giữaĐàng Trong (Chúa Nguyễn) và Đàng Ngoài (Chúa Trịnh),sự phân tranh Nam Bắc và chia đôi lãnh thổ đã làcơ hội để tạo nên một chi nhánh văn hóamới xa dần văn hóa cổ truyền. Đếnthế kỷ XVII khi Họ Nguyễn chiếm hết cảmiền Trung và rồi một số người miềnTrung vào khai phá miền Nam khẩn hoang lập ấp xâydựng nên miền Nam thì một chi nhánh văn hóa khácnữa lại thành hình. Chi nhánh văn hóa mới này lạicàng cách biệt với văn hóa gốc ở miềnBắc để đến gần văn hóa Đông Nam Áhơn.

Một nhà văn hóa gần đây viết :Sự thành hình của Đàng Trong là một biếnđổi cơ bản mạnh mẽ trong lịch sửViệt Nam . . . Những thành công của họ Nguyễnđã sản xuất ra một xã hội mới, mộtnền văn hóa mới. Yếu tố kinh tế đãđóng vai trò quyết định: trong vài thập kỷngắn ngủi, Đàng Trong đã giàu hơn và mạnhhơn Miền Bắc. . . Cả hai điều kiện kinhtế của dân chúng và xã hội mở rộng củaĐàng Trong đều đối nghịch một cáchưu thế với cái gọi là trung ương tậpquyền của triều đình nhà Lê. . . . Đàng Trong trởthành bộ máy lịch sử của biến đổi, vàchuyển trọng tâm của quốc gia Việt Nam vềphương diện chính trị, kinh tế và cả vănhóa nữa vào phía Nam từ thế kỷ XVII cho đếnngày người Pháp thiết lập chính quyền đôhộ của họ. (“The formation of Dang Trong was a dramatic andfundamental change in Vietnamese history. . . Nguyen successes produced a newsociety and a new culture. Economic factors played a decisive role: within afew short decades, Dang Trong became richer and stronger than the north. . .Both the economic condition of the people and the comparative openness ofsociet in Dang Trong contrasted favorably with the so-called “centralgovernment” of the royal Le kingdom.. . . Dang Trong became the historicalengine of change, and pulled the national Vietnamese centre of gravity –whether sên in political, economic or even cultural terms – southwards from theseventeenth century until the imposition of French rule.”) (An AlternativeVietnam? The Nguyen kingdom in the seventeenth and eighteenth centuries,Journal of Southeast Asian Studies, 3/1/1998, Tana,Li).       

Xã hội Đồng Nai Cửu Long là xãhội mới của người Việt, rộng rãi, cởimở, giàu có, tiếp nhận rất nhiều đồngbào ở các Miền khác vào đây lập nghiệp sinhsống trong các thế kỷ gần đây, và về sau.Đây là nơi đất lành chim đậu củarất nhiều đồng bào từ Bắc vào Nam, từxưa tới giờ. Văn hóa của Đồng NaiCửu Long cũng là văn hóa mới, biến đổitheo thời gian và môi trường sinh sống mới, môitrường Đông Nam Á Lục Địa hay BánĐảo Ấn Trung. Văn hóa Miền Đồng NaiCửu Long luôn biến đổi và đó là điềukiện của tiến bộ.